Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Việt Nam”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Traisg (thảo luận | đóng góp)
Traisg (thảo luận | đóng góp)
Dòng 144: Dòng 144:


===== Giai đoạn 1956 - 1959 =====
===== Giai đoạn 1956 - 1959 =====
Tháng 6/1956, Bộ Chính trị họp và ra nghị quyết về tình hình, nhiệm vụ và công tác miền Nam. Bộ Chính trị khẳng định: "tính chất cuộc vận động cách mạng của ta ở miền Nam là dân tộc và dân chủ. Nhiệm vụ cách mạng của ta ở miền Nam là phản đế và phản phong kiến” và “Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của các giáo phái chống Diệm” đồng thời “Cần củng cố lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang. Tổ chức tự vệ trong quần chúng nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần thiết”.<ref name="quankhu8"/>


Tháng 8/1956, Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ Lê Duẩn soạn "Đề cương cách mạng miền Nam". Đề cương xác định rõ: "Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài, phát xít Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc, phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ để cùng với miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ nhân dân."<ref name="leduan">[http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/details.asp?topic=168&subtopic=463&leader_topic=981&id=BT1681152608 Tuyển tập Lê Duẩn, tập 1 (1950 - 1975), Đề cương cách mạng miền Nam, Lê Duẩn, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 75 - 122]</ref>
Tháng 6/1956, Bộ Chính trị họp và ra nghị quyết về tình hình, nhiệm vụ và công tác miền Nam. Bộ Chính trị khẳng định: "tính chất cuộc vận động cách mạng của ta ở miền Nam là dân tộc và dân chủ. Nhiệm vụ cách mạng của ta ở miền Nam là phản đế và phản phong kiến” và “Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của các giáo phái chống Diệm” đồng thời “Cần củng cố lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang. Tổ chức tự vệ trong quần chúng nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần thiết”.


Để đẩy mạnh phong trào cách mạng tại miền Nam, Đề cương cách mạng miền Nam vạch ra các nhiệm vụ cơ bản sau:<ref name="leduan"></ref>
Tháng 8/1956, Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ Lê Duẩn soạn "Đề cương cách mạng miền Nam". Đề cương xác định rõ: "Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài, phát xít Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc, phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ để cùng với miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ nhân dân."

Để đẩy mạnh phong trào cách mạng tại miền Nam, Đề cương cách mạng miền Nam vạch ra các nhiệm vụ cơ bản sau:


1. Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, phát huy uy thế chính trị của Đảng trong quảng đại quần chúng.
1. Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, phát huy uy thế chính trị của Đảng trong quảng đại quần chúng.
Dòng 159: Dòng 158:
4. Khai thác mâu thuẫn trong nội bộ địch để làm yếu và cô lập địch, gây thêm lực lượng cho ta.
4. Khai thác mâu thuẫn trong nội bộ địch để làm yếu và cô lập địch, gây thêm lực lượng cho ta.


Tháng 12/1956, Xứ uỷ Nam Bộ mở hội nghị ở Phnompenh Campuchia nghiên cứu nghị quyết Bộ Chính trị và "Đề cương cách mạng miền Nam". Hội nghị ra quyết định "Con đường tiến lên của Cách mạng miền Nam là phải dùng bạo lực, tổng khởi nghĩa giành chính quyền... Hiện nay, trong chừng mực nào đó phải có lực lượng vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và tiến tới sau này dùng nó đánh đổ Mỹ Diệm... cần tích cực xây dựng lực lượng vũ trang tuyên truyền, lập đội vũ trang bí mật, tranh thủ vận động cải tạo lực lượng giáo phái bị Mỹ Diệm đánh tan đứng vào hàng ngũ nhân dân, lợi dụng danh nghĩa giáo phái ly khai để diệt ác ôn."
Tháng 12/1956, Xứ uỷ Nam Bộ mở hội nghị ở Phnompenh Campuchia nghiên cứu nghị quyết Bộ Chính trị và "Đề cương cách mạng miền Nam". Hội nghị ra quyết định "Con đường tiến lên của Cách mạng miền Nam là phải dùng bạo lực, tổng khởi nghĩa giành chính quyền... Hiện nay, trong chừng mực nào đó phải có lực lượng vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và tiến tới sau này dùng nó đánh đổ Mỹ Diệm... cần tích cực xây dựng lực lượng vũ trang tuyên truyền, lập đội vũ trang bí mật, tranh thủ vận động cải tạo lực lượng giáo phái bị Mỹ Diệm đánh tan đứng vào hàng ngũ nhân dân, lợi dụng danh nghĩa giáo phái ly khai để diệt ác ôn."<ref name="quankhu8"/>


Để thực hiện đường lối cách mạng mà Bộ Chính trị và Xứ Uỷ Nam Bộ đã xác định, lực lượng cộng sản toàn miền Nam đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, tổ chức biểu tình, chống cải cách điền địa, ám sát và đấu tranh vũ trang chống chính quyền. Họ tổ chức các cuộc biểu tình chống việc thi hành nghĩa vụ quân sự, tổ chức nông dân dùng hung khí tấn công địa chủ thu tiền thuê đất, đặt mìn giết chết lực lượng bảo an, ám sát viên chức chính phủ, đánh chìm phương tiện nạo vét kinh, tấn công vào Khu Dinh điền ...
Để thực hiện đường lối cách mạng mà Bộ Chính trị và Xứ Uỷ Nam Bộ đã xác định, lực lượng cộng sản toàn miền Nam đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, tổ chức biểu tình, chống cải cách điền địa, ám sát và đấu tranh vũ trang chống chính quyền. Họ tổ chức các cuộc biểu tình chống việc thi hành nghĩa vụ quân sự, tổ chức nông dân dùng hung khí tấn công địa chủ thu tiền thuê đất, đặt mìn giết chết lực lượng bảo an, ám sát viên chức chính phủ, đánh chìm phương tiện nạo vét kinh, tấn công vào Khu Dinh điền ...<ref name="quankhu8"/>


Người cộng sản tổ chức lực lượng vũ trang đến tận cấp xã. Ở Long An, mỗi tiểu đội phụ trách 2 đến 3 xã, mỗi tổ 1 xã. Cộng sản còn sử dụng lực lượng vũ trang cấp đại đội tấn công vào các đồn của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Trong thời kỳ này, người cộng sản đẩy mạnh hoạt động ám sát các viên chức chính phủ được gọi là bọn ác ôn. Từ quý 3 năm 1957, mỗi tỉnh Khu 8 bình quân giết 20 - 30 nhân viên chính phủ trong một tháng. Những hoạt động kể trên làm an ninh nông thôn miền Nam xấu đi thấy rõ. Hai bên chính quyền và cộng sản không ngừng bắt bớ thủ tiêu lẫn nhau.
Người cộng sản tổ chức lực lượng vũ trang đến tận cấp xã. Ở Long An, mỗi tiểu đội phụ trách 2 đến 3 xã, mỗi tổ 1 xã. Cộng sản còn sử dụng lực lượng vũ trang cấp đại đội tấn công vào các đồn của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Trong thời kỳ này, người cộng sản đẩy mạnh hoạt động ám sát các viên chức chính phủ được gọi là bọn ác ôn. Từ quý 3 năm 1957, mỗi tỉnh Khu 8 bình quân giết 20 - 30 nhân viên chính phủ trong một tháng. Những hoạt động kể trên làm an ninh nông thôn miền Nam xấu đi thấy rõ. Hai bên chính quyền và cộng sản không ngừng bắt bớ thủ tiêu lẫn nhau.<ref name="quankhu8"/>


Không chỉ người cộng sản đẩy mạnh hoạt động mà chính quyền cũng chống Cộng rất tích cực. Chỉ riêng Tỉnh Định Tường, trong năm 1957, chính quyền bắt 29 huyện uỷ viên, 24 cán bộ huyện uỷ, 70 bí thư xã, 38 phó bí thư, 73 chi uỷ viên, 229 đảng viên, 69 thanh niên có liên quan đến cộng sản thuộc 3 huyện Cai Lậy, Cái Bè và Châu Thành. Những cố gắng của chính quyền thu được kết quả tốt. Ở Mỹ Tho, trung đội 514 ở Cái Bè bị thiệt hại nặng chỉ còn 8 người. Tỉnh Kiến Tường tập trung những cán bộ của Mỹ Tho trong tiểu đoàn 504 thành lập một trung đội đưa về Mỹ Tho nhưng lực lượng này không hoạt động được phải quay về Kiến Tường. Ngày 31/10/1957, đảng uỷ tiểu đoàn 2 đang họp ở xã Tân Phú, huyện Thanh Bình, tỉnh Kiến Phong thì bị bắt gần hết. Những hoạt động của chính quyền khiến lực lượng cộng sản thiệt hại nặng.
Không chỉ người cộng sản đẩy mạnh hoạt động mà chính quyền cũng chống Cộng rất tích cực. Chỉ riêng Tỉnh Định Tường, trong năm 1957, chính quyền bắt 29 huyện uỷ viên, 24 cán bộ huyện uỷ, 70 bí thư xã, 38 phó bí thư, 73 chi uỷ viên, 229 đảng viên, 69 thanh niên có liên quan đến cộng sản thuộc 3 huyện Cai Lậy, Cái Bè và Châu Thành. Những cố gắng của chính quyền thu được kết quả tốt. Ở Mỹ Tho, trung đội 514 ở Cái Bè bị thiệt hại nặng chỉ còn 8 người. Tỉnh Kiến Tường tập trung những cán bộ của Mỹ Tho trong tiểu đoàn 504 thành lập một trung đội đưa về Mỹ Tho nhưng lực lượng này không hoạt động được phải quay về Kiến Tường. Ngày 31/10/1957, đảng uỷ tiểu đoàn 2 đang họp ở xã Tân Phú, huyện Thanh Bình, tỉnh Kiến Phong thì bị bắt gần hết. Những hoạt động của chính quyền khiến lực lượng cộng sản thiệt hại nặng.<ref name="quankhu8"/>


Trước tình hình đó, cuối năm 1958, Xứ Uỷ Nam Bộ chỉ đạo cho các Liên tỉnh uỷ không được hoạt động vũ trang, cho phần lớn cán bộ đảng viên tạm ngừng hoạt động hoặc đổi địa bàn hoạt động để giữ gìn lực lượng, một bộ phận ra hoạt động hợp pháp lâu dài. Các tỉnh Long An, Kiến Phong, Kiến Tường tuy vẫn duy trì lực lượng vũ trang nhưng không còn hoạt động mà rút vào căn cứ Đồng Tháp hoặc biên giới Campuchia sinh sống. Những người đổi địa bàn hoạt động bị bắt hơn phân nửa, một số khác mất tinh thần, bỏ công tác, lo làm ăn. Khoảng 700 người ra trình diện. Một số chấp nhận ly khai cộng sản được tha bổng, số còn lại bị tống giam. Những người còn hoạt động mất tinh thần, giảm liên hệ với quần chúng, giảm hoạt động tuyên truyền. Nhìn chung đến cuối năm 1958, sau 2 năm thực hiện chủ trương dùng bạo lực, tổng khởi nghĩa giành chính quyền, lực lượng cộng sản thiệt hại nặng, phong trào đấu tranh của họ đi xuống.
Trước tình hình đó, cuối năm 1958, Xứ Uỷ Nam Bộ chỉ đạo cho các Liên tỉnh uỷ không được hoạt động vũ trang, cho phần lớn cán bộ đảng viên tạm ngừng hoạt động hoặc đổi địa bàn hoạt động để giữ gìn lực lượng, một bộ phận ra hoạt động hợp pháp lâu dài. Các tỉnh Long An, Kiến Phong, Kiến Tường tuy vẫn duy trì lực lượng vũ trang nhưng không còn hoạt động mà rút vào căn cứ Đồng Tháp hoặc biên giới Campuchia sinh sống. Những người đổi địa bàn hoạt động bị bắt hơn phân nửa, một số khác mất tinh thần, bỏ công tác, lo làm ăn. Khoảng 700 người ra trình diện. Một số chấp nhận ly khai cộng sản được tha bổng, số còn lại bị tống giam. Những người còn hoạt động mất tinh thần, giảm liên hệ với quần chúng, giảm hoạt động tuyên truyền. Nhìn chung đến cuối năm 1958, sau 2 năm thực hiện chủ trương dùng bạo lực, tổng khởi nghĩa giành chính quyền, lực lượng cộng sản thiệt hại nặng, phong trào đấu tranh của họ đi xuống.<ref name="quankhu8"/>


Ngày 6/5/1959, Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà thông qua luật số 91 mang tên Luật 10/59 quy định việc tổ chức các Tòa án quân sự đặc biệt nhằm xét xử các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi luật này được ban hành, lực lượng cộng sản tiếp tục bị thiệt hại nặng nề. Đơn cử Khu 8, sau hiệp định Genève có 12.000 đảng viên, đến tháng 7/1956 còn 6.000 người, cuối năm 1959 chỉ còn 2.000 người.
Ngày 6/5/1959, Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà thông qua luật số 91 mang tên Luật 10/59 quy định việc tổ chức các Tòa án quân sự đặc biệt nhằm xét xử các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi luật này được ban hành, lực lượng cộng sản tiếp tục bị thiệt hại nặng nề. Đơn cử Khu 8, sau hiệp định Genève có 12.000 đảng viên, đến tháng 7/1956 còn 6.000 người, cuối năm 1959 chỉ còn 2.000 người.<ref name="quankhu8"/>


=== Giai đoạn 1960–1965 ===
=== Giai đoạn 1960–1965 ===

Phiên bản lúc 15:52, ngày 20 tháng 8 năm 2011

Chiến tranh Việt Nam
Một phần của Chiến tranh Đông DươngChiến tranh Lạnh
Theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái:
Thời gian1 tháng 11, 1955 – 30 tháng 4 năm 1975 (1975-04-30)
(19 năm, 5 tháng, 4 tuần và 1 ngày)[A 1][5]
Địa điểm
Kết quả

Chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng Cộng hòa miền Nam Việt Nam

Thay đổi
lãnh thổ
Thống nhất lãnh thổ Việt Nam thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1976
Tham chiến
Chỉ huy và lãnh đạo
(xem Những nhà lãnh đạo trong Chiến tranh Việt Nam) (xem Những nhà lãnh đạo trong Chiến tranh Việt Nam)
Lực lượng

≈860.000 (1967)

≈1.420.000 (1968)

  • Việt Nam Cộng hòa: 850.000 (1968)
    1.500.000 (1974–1975)[18]
  • Hoa Kỳ: tổng cộng 2.709.918 quân nhân đã tham chiến tại Việt Nam
    543.000 lúc cao điểm (4/1969)[13]:xlv
  • Cộng hòa Khmer: 200.000 (1973)[19]
  • Lào: 72.000 (quân lực Hoàng gia và dân quân H'Mông)[20][21]
  • Hàn Quốc: tổng cộng khoảng 325.000 quân nhân đã tham chiến tại Việt Nam (1964–1973)[22][23][24][25]
    50.000 lúc cao điểm (1968)[26]
  • Thái Lan: 32.000 mỗi năm (1965–1973)
    (ở Việt Nam[27] và Lào)[28]
  • Úc: 50.190 tổng cộng (7.672 quân nhân chiến đấu)
  • New Zealand: 3.500 tổng cộng (552 quân nhân chiến đấu)[9]:
  • Philippines: 2.061
  • Tây Ban Nha: 13[29]
Thương vong và tổn thất
  • VNDCCH & MTDTGPMNVN:
    849.018 quân nhân chết (theo thống kê của Việt Nam, 1/3 không phải do chiến đấu)[30][31]
    666.000–950.765 quân nhân chết (Hoa Kỳ ước tính từ 1964–1974)[A 3][32][33]:450–1
    232.000–300.000+ mất tích (theo Việt Nam)[34][35]
    600.000+ bị thương[36]:739
  • Khmer Đỏ: Không rõ
  • Lào Pathet Lào: Không rõ
  •  Trung Quốc: 1.100 chết, 4.200 bị thương[12]
  •  Liên Xô: 16 chết[37]
  •  Bắc Triều Tiên: 14 chết[38]

Tổng số quân nhân chết: 667.130–951.895
Tổng số quân nhân bị thương: 604.200 (ngoại trừ GRUNKPathet Lào)

  •  Việt Nam Cộng hòa:
    254.256 (1960-1974) – 313.000 quân nhân chết (toàn bộ cuộc chiến)[39]:275[40]
    1.170.000 bị thương[13]:
    ≈1.000.000 bị bắt[41]
  •  Hoa Kỳ:
    58.281 quân nhân chết[42] (47.434 trong chiến đấu)[43][44]
    303.644 bị thương (150.341 không cần chăm sóc tại bệnh viện)[45][46][47]
    1.584–1.948 mất tích[48][49]
  •  Lào: 15.000 quân nhân chết[50]
  • Cộng hòa Khmer: Không rõ
  •  Hàn Quốc: 4.407–5.099 chết, 10.962–17.060 bị thương, 4 mất tích[22][24][51][52]
  •  Australia: 521 chết, 3.129 bị thương[53]
  •  Thái Lan: 351 chết[13]:
  •  New Zealand: 37 chết[54]
  •  Đài Loan: 25 chết,[55] 17 bị bắt[56]
  •  Philippines: 9 chết,[57] 64 bị thương[58]

Tổng số quân nhân chết: 333.620 (1960-1974) – 392.364 (toàn bộ cuộc chiến)
Tổng số quân nhân bị thương: 1.340.000+[13]:
(chưa tính FANK)
Tổng số quân nhân bị bắt: 1.000.000+

Chiến tranh Việt Nam (19541975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh Đông Dương (19451979). Đây là cuộc chiến giữa hai bên, một bên là Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ, cùng một số đồng minh khác như Úc, New Zealand, Đại Hàn, Thái LanPhilippines tham chiến trực tiếp và một bên là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc Việt Nam do Đảng Lao động Việt Nam (tên của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 11 tháng 2 năm 1951 đến trước ngày 20 tháng 12 năm 1976) lãnh đạo cùng với những người cộng sản tại miền Nam Việt Nam và sự trợ giúp từ các nước xã hội chủ nghĩa (cộng sản), đặc biệt là của Liên XôTrung Quốc. Cuộc chiến này tuy gọi là "Chiến tranh Việt Nam" nhưng chiến sự lan ra toàn cõi Đông Dương, lôi cuốn vào vòng chiến cả hai nước lân cận là LàoCampuchia ở các mức độ khác nhau. Do đó cuộc chiến còn được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ 2.

Tên gọi

Tại Việt Nam, sách báo còn dùng tên Kháng chiến chống Mỹ cứu nước để chỉ cuộc chiến tranh này,[66] cũng là để phân biệt với các cuộc chiến tranh khác đã xảy ra ở Việt Nam khi chống Pháp, chống Nhật, chống Mông Cổ, chống Trung Quốc. Một số người[67] cảm thấy tên Kháng chiến chống Mỹ không trung lập do trong cuộc chiến còn có 2 lực lượng người Việt đối địch nhau;[67] một số khác cho rằng tên Chiến tranh Việt Nam thể hiện cách nhìn của người phương Tây hơn là của người sống tại Việt Nam.[67] Tên gọi của cuộc chiến này vẫn còn đang là một vấn đề tranh cãi. Tuy nhiên hiện nay các học giả trong và ngoài Việt Nam đang dần dần chấp nhận tên "Chiến tranh Việt Nam" vì tính chất quốc tế của nó.[67]

Cuộc chiến này chính thức kết thúc với sự kiện 30 tháng 4, 1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, sau đó, quản lý miền Nam cho đến khi đất nước thống nhất. Nhà nước thống nhất với quốc hiệu là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời vào năm 1976.

Bản chất của Chiến tranh Việt Nam

Bản chất của Chiến tranh Việt Nam rất phức tạp và đa diện tùy theo lập trường của các bên và hiện nay đang còn được tranh luận nhưng có thể rút ra một số đặc điểm sau:

  • Đối với các nhà lãnh đạo của Mỹ[68] và Việt Nam Cộng hòa[69][70] thì đây là cuộc chiến tranh giữa hai hệ tư tưởng: chủ nghĩa cộng sảnchủ nghĩa tư bản, để ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản (Xem Thuyết Domino), chính phủ Mỹ đã đứng ra cáng đáng chi phí của cả cuộc chiến,[71][72][73] có giai đoạn quân đội Mỹ đã trực tiếp chiến đấu trên chiến trường thay cho quân đội Việt Nam Cộng hòa.[74][75][76][77] Theo quan điểm của những ủng hộ Việt Nam Cộng hoà, đây là cuộc chiến bảo vệ "miền Nam tự do" trước những hành động quân sự của những người cộng sản.
  • Đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòaMặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam thì đây là cuộc chiến tranh nhằm thực hiện các mục tiêu giành độc lập, thống nhất hoàn toàn cho đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Họ nhìn nhận cuộc chiến này là một cuộc chiến chống ngoại xâm, chống lại chủ nghĩa thực dân mới mà Mỹ áp đặt tại miền Nam Việt Nam.[78][79][80]
  • Đối với đa số người Việt, sau 2000 năm chiến đấu chống các lực lượng ngoại xâm, người Mỹ đơn giản là sự hiện diện mới nhất của ngoại bang trên đất nước Việt Nam.[81][82][83] Những người này đã góp nên sức mạnh cho phong trào dân tộc mãnh liệt do Hồ Chí Minh lãnh đạo.[84] Phong trào do Đảng Lao Động Việt Nam, với uy tín trong nhân dân đạt được từ việc đã tổ chức Mặt trận Việt Minh giành độc lập cho đất nước và kiên trì chiến đấu chống sự trở lại của chế độ thực dân Pháp, và tổ chức do đảng này thành lập là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đi tiên phong, đã đạt được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân.[85][86][87][88][89] Trong khi đó, phía Việt Nam Cộng hòa ngày càng phụ thuộc vào viện trợ quân sự Mỹ và đã không duy trì được vai trò độc lập của họ trong con mắt của người dân (nhất là sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị sát hại)  – đặc biệt là khi đa số các nhân vật lãnh đạo của họ là những người trong chính phủ Trần Trọng Kim, hình thành dưới chế độ bảo hộ của phát xít Nhật, hay đã từng làm việc cho Quốc gia Việt Nam, một chính thể bị nhiều người xem là tay sai của Pháp.[90] Tiền thân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa là các đơn vị quân chính quy và địa phương thuộc Quân đội Quốc gia Việt Nam do Pháp thành lập, sau đó được Việt Nam Cộng hòa tổ chức lại theo kiểu Mỹ. Theo quan điểm của nhiều sử gia, cuộc chiến này, do đó, mang tính dân tộc rất cao:[91][82][92][85] sự độc lập và thống nhất của đất nước đã trở thành yếu tố quyết định giúp những người Cộng sản thắng lợi chứ không phải là nhờ vào hệ tư tưởng hay ưu thế quân sự. Ngoài những người có cảm tình với các bên tham chiến, đại đa số người dân miền Nam không quan tâm về các hệ tư tưởng chính trị. Họ chỉ muốn được yên ổn để làm ăn. [93]
  • Về quan điểm của người dân Hoa Kỳ, có hai chiều hướng chính. Một phía tin vào chính phủ và ủng hộ cuộc chiến chống Cộng của quân đội Hoa Kỳ. Phía kia cho rằng đây là cuộc chiến tranh xâm lược,[94] chiếm đóng lên miền Nam Việt Nam để điều khiển và kiểm soát thị trường kinh tế, nhân lực, sức lao động và tài nguyên ở vùng Đông Nam Á,[95] còn chính sách chống Cộng sản của chính phủ Mỹ theo Jonathan Neale chỉ là để phục vụ cho quyền lợi của những tập đoàn tư bản Mỹ.[96]
  • Trên cục diện quốc tế đây là cuộc "chiến tranh nóng" trong lòng Chiến tranh Lạnh đang diễn ra quyết liệt lúc đó trên thế giới.[97] Cả Liên Xô và Trung Quốc mặc dù có những xung đột sâu sắc với nhau vẫn cùng viện trợ tối đa cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chống lại Mỹ.

Cuộc chiến tranh này được nhiều người phân đoạn theo các cách khác nhau: Người Mỹ[98][99][100][101] thường quan niệm "Chiến tranh Việt Nam" được tính từ khi khi họ trực tiếp tham chiến trên bộ đến khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa đầu hàng (từ 1965 (nhiều nguồn cho là 1964)[102] đến 1975). Có nhiều nguồn[103][104][105][106] khác lại coi cuộc chiến bắt đầu từ 1960 đến 1975, tính từ khi miền Bắc bắt đầu công khai ủng hộ đấu tranh vũ trang tại miền Nam. Nhưng quan điểm chung[107][66] và chính thống hiện nay của chính phủ Việt Nam[66] vẫn coi Chiến tranh Việt Nam được tính từ 1954 đến 1975.

Viện trợ nước ngoài

Chiến tranh Việt Nam là một trong những cuộc chiến tranh tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại, trong khi Hoa Kỳ viện trợ ồ ạt cho Việt Nam Cộng hòa thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng nhận được sự giúp đỡ to lớn từ phía Trung Quốc, Liên Xô và khối các nước xã hội chủ nghĩa khác. Viện trợ nước ngoài có vai trò và tác động to lớn đến quy mô, cường độ và hình thái chiến tranh Việt Nam.

Giai đoạn 1955-1975      Việt Nam Cộng hòa(còn lại đến năm 1975)[108]
từ Hoa Kỳ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1960-1975)[109]
từ Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Súng bộ binh 1.900.000 3.608.863
Phi cơ 1.200 458
Trực thăng 600 Không có số liệu
Xe tăng-Thiết giáp 2.074 2.210
Tên lửa SA 75M Không có trang bị 23
Pháo các loại 1.532 8.438
Xe cơ giới các loại 56.000 16.116
Máy thông tin 50.000 (vô tuyến)
70.000 (hữu tuyến)
Không có trang bị
Bệ phóng tên lửa Không có trang bị 1.357

Diễn biến theo thời gian

Phó tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson, Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm và Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn Nolting

Sự phân đoạn như sau cốt chỉ để tiện tham chiếu cho các diễn biến chính trên chiến trường. Trong báo chí và các diễn đàn về Chiến tranh Việt Nam còn rất nhiều cách phân đoạn khác nhau tuỳ theo trọng điểm phân tích.

Những di sản của Chiến tranh Đông Dương lần thứ I

Ngay từ năm 1949, sau khi Nội chiến Trung Quốc kết thúc, và sau đó là chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, giới chính khách Mỹ cảm thấy lo sợ về làn sóng chủ nghĩa Cộng sản tại các nước thế giới thứ ba. Thuyết Domino ra đời, theo đó Mỹ tin rằng nếu một quốc gia đi theo Chủ nghĩa cộng sản, các quốc gia thân phương Tây lân cận sẽ bị đe dọa. Bởi vậy, Hoa Kỳ bắt đầu viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến chống lại Việt Minh (ám chỉ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), một tổ chức/chính quyền họ cho là có liên hệ với Liên Xô và Trung Quốc. Đồng thời Mỹ tích cực chuẩn bị cho việc lập "khối Cửu Long" gồm Campuchia, Lào, Thái Lan, nhằm biến ba nước dọc sông Mê Kông thành căn cứ quân sự, dùng ba nước này làm bàn đạp ở Đông Dương.

Mỹ tuyên bố "ủng hộ nguyện vọng độc lập dân tộc tại Đông Nam Á" trong đó có Việt Nam, nhưng với điều kiện "lãnh đạo của những nhà nước mới không phải là người cộng sản", đặc biệt ủng hộ việc thành lập các "nhà nước phi cộng sản" ổn định trong khu vực tiếp giáp Trung Quốc. Theo thuyết Domino, Mỹ hỗ trợ những quốc gia đồng minh tại Đông Nam Á vì không hài lòng với điều mà họ cho là "lực lượng cộng sản muốn thống trị Châu Á dưới chiêu bài dân tộc".[110] Bằng viện trợ, Mỹ ép Pháp phải nhượng bộ chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam. Chính sách của Mỹ là hỗ trợ người Pháp chiến thắng trong cuộc chiến chống Việt Minh, sau đó sẽ ép người Pháp rút lui khỏi Đông Dương.[111]

Khi chiến tranh chấm dứt vào năm 1954, Mỹ đã trả 78% chiến phí cho Pháp[112], thậm chí phi công Mỹ cũng tham gia chiến đấu cùng Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Thời gian này ở tất cả các cấp bộ trong quân đội viễn chinh Pháp đều có cố vấn Mỹ. Người Mỹ có thể đến bất cứ nơi nào kiểm tra tình hình không cần sự chấp thuận của tổng chỉ huy. Việc Mỹ trực tiếp tham chiến tại chiến tranh Đông Dương chỉ còn là vấn đề thời gian 1-2 năm. Thậm chí khi Điện Biên Phủ nguy cấp, Mỹ đã tính tới chuyện dùng bom nguyên tử để cứu nguy cho Pháp. Một phần Hạm đội 7 với 2 tàu sân bay đã cập vịnh Hạ Long vào cuối tháng 4, sẵn sàng xuất kích khi có lệnh.

Bản thân người Pháp cũng cố gắng hết sức để chí ít cũng có một "lối thoát danh dự". Sau thất bại của chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, để giảm bớt áp lực chính trị-quân sự, Pháp đàm phán với Bảo Đại và những chính trị gia Việt Nam phi cộng sản không ủng hộ Chính phủ kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để thành lập Quốc gia Việt Nam thuộc Liên Hiệp Pháp.[113] Tới cuối chiến tranh, Quân đội Quốc gia Việt Nam đã phát triển lên tới 230.000 quân, chiếm 60% lực lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương[114], được đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Văn Hinh.[115]. Quân đội này sẽ trở thành nòng cốt của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa sau này.[116]

Tuy nhiên công thức "viện trợ Mỹ, viễn chinh Pháp, quân bản xứ" vẫn không cứu vãn được thất bại. Sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, Pháp đã mất hẳn ý chí tiếp tục chiến đấu giữ thuộc địa Đông Dương.[117].

Hiệp định Genève quy định các phe tham gia chiến tranh Đông Dương phải ngừng bắn, giải giáp vũ khí. Theo sự dàn xếp của các cường quốc, tạm thời chia Việt Nam ra thành hai khu vực cho hai phe quân sự đối địch. Miền Bắc dành cho các lực lượng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, miền Nam dành cho tất cả các lực lượng thuộc khối Liên hiệp Pháp. Vĩ tuyến 17 được xem là ranh giới, và một khu phi quân sự tạm thời được lập dọc theo hai bên bờ sông Bến Hải thuộc tỉnh Quảng Trị. Quân đội hai bên phải rút về khu vực được quy định trong vòng 300 ngày. Trong thời gian chuyển tiếp đó, người dân hai miền được quyền lựa chọn nơi sinh sống là khu vực mà mình muốn và sẽ được hỗ trợ trong việc di chuyển.

Hiệp định Genève không có điều khoản nào quy định chi tiết về việc tổ chức Tổng tuyển cử tự do để thống nhất Việt Nam[118]. Nhưng theo Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954, tình trạng chia cắt này chỉ là tạm thời cho đến khi cuộc tổng tuyển cử tự do cho việc thống nhất Việt Nam sẽ được tổ chức vào năm tháng 7/1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Đồng thời Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève cũng công nhận chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, Lào, Việt Nam, và ghi nhận bản Tuyên bố của chính phủ Pháp về việc sẵn sàng rút quân đội Pháp khỏi lãnh thổ các nước này theo yêu cầu và thỏa thuận với chính quyền sở tại. Tuyên bố này còn nói rằng các chính quyền tại hai khu vực quân sự tại Việt Nam không được cho phép các hành động trả thù đối với những người đã từng cộng tác với phía bên kia cùng gia đình họ[119]. Không có phái đoàn nào tham dự Hội nghị Genève 1954 ký tên vào bản Tuyên bố cuối cùng.[120].

Phái đoàn Quốc gia Việt Nam đã từ chối ký và không công nhận Hiệp định Genève đồng thời ra Tuyên bố Hiệp định Genève chứa "những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt". Tuyên bố cũng yêu cầu Hội nghị ghi nhận Quốc gia Việt Nam "tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở".[121] Phái đoàn Hoa Kỳ cũng từ chối ký và không công nhận Hiệp định Genève, tuyên bố không bị ràng buộc vào những quyết định ấy, nhưng nói thêm nước này "sẽ coi mọi sự tái diễn của các hành động bạo lực vi phạm hiệp định là điều đáng lo ngại và là mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và an ninh quốc tế". Trong Tuyên bố của mình, đối với sự chia cắt Việt Nam trái nguyện vọng của hai miền Nam - Bắc, chính phủ Mỹ cũng nêu rõ quan điểm "tiếp tục cố gắng đạt được sự thống nhất thông qua những cuộc tuyển cử tự do được giám sát bởi Liên Hiệp Quốc để bảo đảm chúng diễn ra công bằng".[122]

Kết quả Hiệp định: Quân đội Nhân dân Việt Nam, lực lượng vừa giành được thắng lợi quan trọng trên chiến trường, tập kết về miền Bắc. Lực lượng Quốc gia Việt Nam[cần dẫn nguồn]. Theo thống kê của Ủy ban Quốc tế Giám sát Đình chiến có 892.876 dân thường di cư từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam.[123] Quân đội Pháp dần dần rút khỏi miền Nam và trao quyền lực cho chính quyền Quốc gia Việt Nam.

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa (thay thế Quốc gia Việt Nam) từ chối hiệp thương tổng tuyển cử tự do với lý do mà Tổng thống Ngô Đình Diệm đưa ra là "không thể có bầu cử tự do với những người cộng sản"[124]. Tổng thống Ngô Đình Diệm tuyên bố: "Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ" nhưng "nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc".[125] Trước đó, năm 1945, ngay sau khi thành lập, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do người cộng sản lãnh đạo đã ra các sắc lệnh giải tán một số đảng phái khác[126], cho phép Ty Liêm phóng có thể bắt các phần tử bị quy là nguy hiểm cho nền độc lập của Việt Nam đưa đi an trí [127] đồng thời thành lập các toà án quân sự xử những thành phần trên[128] [cần dẫn nguồn][ai?]. Bên cạnh đó, Tổng thống Mỹ Eisenhower tin rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành. [129], nên thực tế Hoa Kỳ cũng hậu thuẫn Việt Nam Cộng Hòa để cuộc tuyển cử không thể diễn ra. Cuộc tổng tuyển cử tự do cho việc thống nhất Việt Nam đã không bao giờ được tổ chức.

Như vậy, xét về quá trình tham gia của các bên tham chiến, cuộc chiến Việt Nam là bước tiếp nối để giải quyết những mục tiêu mà cả 2 bên chưa làm được trong chiến tranh Đông Dương. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muốn đấu tranh giành độc lập-thống nhất hoàn toàn cho Việt Nam, chống lại mọi sự can thiệp của ngoại quốc. Mục tiêu của Việt Nam Cộng hoà - theo tuyên bố của Tổng thống Ngô Đình Diệm - là "thống nhất đất nước, thống nhất trong tự do chứ không phải trong nô lệ".[125] Còn Hoa Kỳ tiếp tục muốn chặn đứng "làn sóng Cộng sản" tại Đông Nam Á, bất kể sự ra đi của người Pháp. Nhiều nhà sử học coi 2 cuộc chiến thực chất chỉ là một với tên gọi "Cuộc chiến mười ngàn ngày", giai đoạn hòa bình 1954-1959 thực chất chỉ là chặng nghỉ tạm thời.[130]

Giai đoạn 1954–1959

Mỹ không công nhận kết quả Hiệp định Genève tuy nhiên vẫn tuyên bố ủng hộ nền hòa bình tại Việt Nam do Hiệp định Genève mang lại và thúc đẩy sự thống nhất hai miền Nam Bắc Việt Nam bằng các cuộc bầu cử tự do dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên, Tổng thống Mỹ Eisenhower lại tin rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành. [131], do đó Mỹ thực tế lại ủng hộ việc Việt Nam Cộng Hòa từ chối tổ chức Tổng tuyển cử tự do thống nhất Việt Nam. Mỹ coi miền Nam Việt Nam là địa bàn quan trọng trong chiến lược chống sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á nên bắt đầu các hoạt động tại Việt Nam, chuẩn bị cho những hỗ trợ ngày càng lớn hơn cho Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến với lực lượng cộng sản. Năm 1954, đội bán quân sự của Mỹ do Edward Lansdale, người của CIA và đã làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953, chỉ huy đã thực hiện các hoạt động tuyên truyền tâm lý chiến để kêu gọi và vận động dân chúng miền Bắc di cư vào Nam[132]; giúp huấn luyện sỹ quan Việt Nam tại các căn cứ quân sự Mỹ ở Thái Bình Dương; huấn luyện các lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam (sau là Việt Nam Cộng hòa); xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại Philippines; bí mật đưa một lượng lớn vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam; giúp đỡ phát triển các kế hoạch "bình định Việt Minh và các vùng chống đối"[133].

Trong khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa từ chối hiệp thương tổng tuyển cử tự do với lý do mong muốn đất nước "thống nhất trong tự do chứ không phải trong nô lệ" và "nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc"[125] đồng thời ra sức củng cố quyền lực, đàn áp khốc liệt những người cộng sản trung thành còn lại ở miền Nam, những người không chịu tuyên bố ly khai chủ nghĩa cộng sản và hợp tác với chính quyền, bằng những chiến dịch "tố cộng", "diệt cộng".

Trong khi đó miền Bắc vẫn chuẩn bị cho tổng tuyển cử và cố gắng theo đuổi các giải pháp hòa bình[134]. Hà Nội tìm kiếm hỗ trợ quốc tế, kêu gọi các đồng chủ tịch hội nghị Genève, nhắc nhở Pháp về trách nhiệm đối với việc thống nhất hai miền Nam Bắc Việt Nam thông qua Tổng tuyển cử tự do theo đúng tinh thần của Bản Tuyên bố cuối cùng tại Hội nghị Genève. Tháng 7 năm 1956, sau khi yêu cầu đàm phán không được chính quyền Ngô Đình Diệm trả lời, Hà Nội yêu cầu các đồng chủ tịch hội nghị Genève tổ chức một cuộc hội nghị mới, yêu cầu này lại được lặp lại vào tháng 8. Các yêu cầu đàm phán với chính phủ Ngô Đình Diệm tiếp tục được gửi vào tháng 6 và tháng 7 năm 1957, tháng 3 và tháng 12 năm 1958, tháng 7 năm 1959, và tháng 7 năm 1960, nhưng đều bị từ chối.

Trong khi tiến trình yêu cầu và từ chối đàm phán vẫn tiếp diễn, miền Bắc còn cố tái lập quan hệ thương mại với miền Nam[135], để giúp "nhân dân hai vùng trao đổi kinh tế, văn hóa và xã hội, nhằm tạo thuận lợi cho việc khôi phục cuộc sống bình thường của người dân." Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (khoá II) dự kiến: "Muốn thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình, cần phải tiến hành thống nhất từng bước; từ chỗ tạm thời chia làm hai miền tiến đến chỗ thống nhất chưa hoàn toàn, từ chỗ thống nhất chưa hoàn toàn sẽ tiến đến chỗ thống nhất hoàn toàn." Nhưng cũng như vấn đề bầu cử, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thậm chí còn từ chối cả việc thảo luận.

Về quân sự, miền Nam Việt Nam từ sau khi ký kết Hiệp định Genève, tồn tại ba lực lượng quân sự chủ yếu là: Bình Xuyên, các đảng phái quốc gia (Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng) và các giáo phái (Cao Đài, Hoà Hảo); Việt Nam Cộng hòa; những người kháng chiến cũ là Việt Minh đóng ở miền Nam.

Nhìn chung, trong giai đoạn 1954-1959 quân đội Việt Nam Cộng hòa giữ ưu thế trên chiến trường miền Nam. Nhiều cuộc xung đột vũ trang giữa quân đội Việt Nam Cộng hòa với Bình Xuyên, một bộ phận thân Pháp trong các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, lực lượng quân sự của các đảng phái quốc gia ... diễn ra quyết liệt, với kết quả là các lực lượng này thất bại và phải giải thể hoặc gia nhập vào quân đội Việt Nam Cộng hoà. Còn lại hai lực lượng đối lập nhau gay gắt là: Việt Nam Cộng hòa và lực lượng Việt Minh miền Nam.

Trong giai đoạn này, lực lượng cộng sản còn ở lại miền Nam lui vào bí mật với chủ trương phát động nhân dân đấu tranh chính trị đòi thực hiện Tổng tuyển cử, chống các chương trình phát triển xã hội của chính quyền Ngô Đình Diệm như "Cải cách điền địa", "Cải tiến nông thôn" và bảo vệ cán bộ cách mạng nhưng vẫn sẵn sàng hoạt động vũ trang bất cứ lúc nào với số vũ khí được chôn giấu từ trước. Từ cuối năm 1955, đã xuất hiện những vụ ám sát với tên gọi "diệt bọn ác ôn và bọn do thám chỉ điểm". Những hoạt động vũ trang của những người cộng sản ngày càng gia tăng về quy mô, lan rộng khắp miền Nam. Đến cuối năm 1959 tình hình an ninh quân sự của miền Nam thật sự bất ổn, những người Cộng sản ở miền Nam đã phát động chiến tranh du kích khắp nơi với quy mô lên đến cấp Tiểu đoàn.[136] Tình hình chính trị trở nên xấu đi vì đường lối cứng rắn của chính phủ Việt Nam Cộng hòa với lực lượng cộng sản cũng như vì thái độ bất hợp tác của người cộng sản vốn không công nhận tính hợp pháp của chế độ Việt Nam Cộng hòa.

Tháng 9 năm 1960, sau khi đấu tranh chính trị hoà bình để thống nhất đất nước theo tinh thần của Bản Tuyên bố cuối cùng tại Hội nghị Genève không có kết quả, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức ủng hộ các hoạt động đấu tranh vũ trang và chính trị của những người Cộng sản miền Nam[137]. Đến thời điểm này, sự căng thẳng của những người Cộng sản miền Nam đã lên đến mức mà chính phủ Hà Nội phải ủng hộ đấu tranh vũ trang ở phía Nam vĩ tuyến 17. Hội nghị Trung ương Đảng Lao động lần thứ 15 (tháng 1-1959) quyết định: "Phải qua con đường đấu tranh cách mạng bằng bạo lực, mà cụ thể là dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ và tập đoàn quân sự tay sai của Mỹ."[138]

Như vậy năm 1960 trở thành một năm có biến động lớn, mở ra một giai đoạn mới của Chiến tranh Việt Nam.

Miền Bắc

Tại miền Bắc, những người Cộng sản ngay lập tức bắt tay vào việc tổ chức đất nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa như ở các nước Liên Xô, Trung Quốc. Các chiến dịch cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp, cải tạo tư bản tư doanh đã san bằng các thành phần xã hội, xóa bỏ các giai cấp địa chủ và tư bản, không cho phép các chính kiến đối lập với Đảng Cộng sản khi đó mang tên Đảng Lao động Việt Nam. Đời sống xã hội dựa trên nguyên tắc kỷ luật hóa cao độ, các quyền tự do chính trị và các tổ chức bị hạn chế đến mức chỉ còn là hình thức trong một "nhà nước-đảng". Xã hội nhanh chóng chuẩn bị cho cuộc sống quân sự hóa toàn diện khi "mỗi người dân đều là một chiến sĩ".

Quân đội Nhân dân Việt Nam được tổ chức lại, nhất là về mặt chính trị để bảo đảm trung thành tuyệt đối với Đảng. Việc hiện đại hóa quân đội được tiến hành nhưng chậm và không đồng bộ, nhiều sư đoàn bộ binh được thành lập thêm nhưng vẫn mang tính bộ binh đơn thuần, hoả lực thiếu, yếu và chắp vá. Quân đội chưa có các quân binh chủng kỹ thuật cao như không quân, radar...; hải quân, tăng thiết giáp còn đang trong quá trình sơ khai; phương tiện vận tải, thông tin liên lạc còn yếu kém. Nguyên nhân là do tình hình kinh tế kém phát triển của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời sự hạn chế nguồn viện trợ từ Liên Xô, Trung Quốc. Nhưng cũng chính vào giai đoạn này miền Bắc đã bí mật cho tiến hành phát triển tuyến đường tiếp vận chiến lược: Đường Trường Sơn – còn được gọi là Đường mòn Hồ Chí Minh. Đây sẽ là một tuyến vận chuyển chiến lược đảm bảo nhu cầu chiến tranh sẽ được mở rộng tại miền Nam sau này. Mặc dù vào lúc đó, tuyến đường này vẫn chỉ là các lối mòn trong rừng cho giao liên và các toán cán bộ vào Nam.

Nhìn chung, các nỗ lực tranh đấu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào thời kỳ này là đấu tranh chính trị và ngoại giao để đòi tổng tuyển cử theo Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève, mà nếu nó xảy ra các lãnh tụ cộng sản tin rằng họ sẽ có ưu thế. Miền Bắc ở giai đoạn này đang tích luỹ nhưng chưa đủ khả năng để tiến hành chiến tranh tại miền Nam.

Miền Nam

Ở miền Nam, nhờ những nỗ lực chính trị của bản thân cộng với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, Ngô Đình Diệm – được bổ nhiệm làm thủ tướng và trở thành tổng thống sau một cuộc trưng cầu ý dân bị tố cáo là gian lận ngày 23 tháng 10 năm 1955 – đã nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, xã hội. Chính phủ Hoa Kỳ đã viện trợ lớn cho Việt Nam Cộng hòa và đã đạt được một số thành quả quan trọng: kinh tế phục hồi và phát triển nhanh, hệ thống y tế và giáo dục các cấp được xây dựng, nhà nước thực hiện các chương trình xóa mù chữ, tái định cư, phát triển nông thôn, kinh tế phát triển, đời sống dân chúng được cải thiện[139] ... Với ảnh hưởng tuyệt đối của mình, Hoa Kỳ đòi hỏi chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải xây dựng một lãnh thổ phi cộng sản, độc lập, tự do theo tiêu chuẩn Mỹ và sẵn sàng đương đầu với miền Bắc.[cần dẫn nguồn]

Chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm nhanh chóng thanh lọc bộ máy cầm quyền, đưa những người trung thành với ông vào các vị trí quan trọng. Nhà nước Việt Nam Cộng hòa, lúc đó mang biểu hiện của hình thức tập quyền, chính trị của quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào các đặc tính cá nhân của Tổng thống và gia đình ông. Quân đội Việt Nam Cộng hòa được cấp tốc trang bị và huấn luyện với sự giúp đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ. Quân lực Việt Nam Cộng hòa, vào thời điểm đó, về trang bị, trình độ huấn luyện được xem là đứng đầu khu vực Đông Nam Á, vượt trội hơn Quân đội Nhân dân Việt Nam - đang là đối thủ tiềm tàng ở miền Bắc.

Điều 7 Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 quy định "Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp". Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kêu gọi những người cộng sản đang hoạt động bí mật ly khai chủ nghĩa cộng sản, ra hợp tác với chế độ mới hoặc cưỡng ép những người bị bắt từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.[136] Những người hợp tác sẽ bị đồng chí của họ coi là đầu hàng, phản bội lại lý tưởng và có thể bị trừng phạt. Hệ thống tổ chức bí mật của người cộng sản vẫn tiếp tục tồn tại, tuyên truyền chống chính phủ, tổ chức những cuộc biểu tình chính trị gây lo ngại cho Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Chính vì thế Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tiến hành các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, liên gia phòng vệ, dồn dân lập ấp chiến lược... một cách quyết liệt[140] không tính đến các đặc điểm tâm lý và quyền lợi của dân chúng cũng như hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. Trong thời gian từ 1954 đến 1960, theo số liệu của Việt Nam Cộng hoà có 48.250 người bị tống giam[123], theo một nguồn khác có khoảng 24.000 người bị thương, 80.000 bị hành quyết hay bị ám sát, 275.000 người bị cầm tù, thẩm vấn hoặc với tra tấn hoặc không, và khoảng 500.000 bị đưa đi các trại tập trung.[141] Điều này đã làm biến dạng mô hình xã hội, suy giảm niềm tin của dân chúng vào chính thể của Tổng thống Ngô Đình Diệm và đẩy những người kháng chiến cũ vào rừng lập chiến khu.

Về mặt tôn giáo, chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm được lực lượng Công giáo ủng hộ mạnh ở thành thị và bộc lộ nhiều tính thiên vị Công giáo kể cả trong cơ cấu bộ máy chính quyền. Tổng thống Ngô Đình Diệm coi những người Công giáo là thành phần đáng tin cậy về mặt chính trị, không có quan hệ hoặc chịu ảnh hưởng của những người cộng sản. Mặc dù vậy, phần lớn người Việt ở miền Nam vẫn giữ truyền thống theo đạo Phật. Mâu thuẫn vì tôn giáo sau này cũng trở thành một trong những động lực khởi phát cuộc đảo chính của Quân lực Việt Nam Cộng hòa chống lại Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11 năm 1963.

Lực lượng cộng sản ở miền Nam

Hệ thống những người Cộng sản ở miền Nam Việt Nam là bộ phận cấu thành của những người Cộng sản toàn Việt Nam, nhưng mang một số đặc điểm riêng do ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội, văn hóa. Trong giai đoạn này, tổ chức của họ là Xứ uỷ Nam Bộ thay thế cho Trung ương Cục miền Nam, đã có các đối sách hợp lý, gây khó khăn cho Chính phủ Ngô Đình Diệm. Từ chỗ bị truy lùng ráo riết mà chỉ trong hai năm lực lượng cộng sản không những hồi phục về tổ chức mà còn phát triển thế chủ động tấn công cả về chính trị và về quân sự. Về chính trị, họ đã làm chính quyền lao đao bằng các cuộc đấu tranh chính trị rầm rộ ở nông thôn và thành thị do họ chỉ đạo từ xa.[142] Về quân sự, họ đã phát triển chiến tranh du kích và đã đánh được những trận lớn như trận Tua Hai (Tây Ninh) vào căn cứ cấp trung đoàn của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Chiến thuật này đã phát huy tác dụng làm hạn chế được sức mạnh quân sự của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, do thiếu thốn về cơ sở vật chất và hệ thống nhân lực, những người Cộng sản ở miền Nam nói chung vẫn tồn tại, chung sống một cách "hòa bình", đan xen với bộ máy chính quyền địa phương của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.

Giai đoạn 1954 - 1956

Theo Hiệp định Genève, lực lượng quân sự của mỗi bên tham gia cuộc chiến Đông Dương (1945-1954) sẽ rút khỏi lãnh thổ của phía bên kia. Lực lượng Quân đội Nhân dân ở miền Nam phải di chuyển về phía Bắc vĩ tuyến 17. Nhưng đa số cán bộ, đảng viên các ngành vẫn được bố trí ở lại.[136] Theo ước tính, lực lượng này lên đến 100.000 người.[123] Một số cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang dày dạn kinh nghiệm được chọn lọc làm nhiệm vụ bảo vệ lãnh đạo Đảng, thâm nhập vào tổ chức quân sự và dân sự của đối phương hoặc nắm lực lượng vũ trang giáo phái để dự phòng cho việc phải chiến đấu vũ trang trở lại[136]. Việt Minh cũng chôn giấu một số vũ khí và đạn dược tốt để sử dụng khi cần. Chỉ riêng Quân khu 8 đã để lại số vũ khí đủ trang bị cho 3 tiểu đoàn.[136] Trong chiến dịch chống cộng sản, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đã phát hiện 707 hầm chứa vũ khí, thu giữ 119.954 vũ khí và 75 tấn tài liệu.[123]

Bên cạnh đó Trung ương Đảng đã cử những cán bộ có kinh nghiệm, am hiểu chiến trường về miền Nam lãnh đạo. Một số trí thức là đảng viên vào miền Nam hoạt động công khai và hợp pháp. Đồng thời miền Bắc còn tuyển chọn và huấn luyện nhiều nhân viên tình báo đưa vào miền Nam hoạt động trong hàng ngũ đối phương. Những cán bộ được cử vào Nam xâm nhập miền Nam bằng con đường hợp pháp dưới danh nghĩa dân thường di cư vào Nam.[136]

Trong giai đoạn này, người cộng sản chủ trương phát động quần chúng đấu tranh chính trị đòi Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ cán bộ - đảng viên, hạn chế hoạt động vũ trang. Vì vậy thời kỳ này chưa có những xung đột quân sự lớn và công khai giữa lực lượng cộng sản và chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Hoạt động bạo lực chỉ giới hạn ở mức tổ chức các vụ ám sát dưới tên gọi diệt ác trừ gian, hỗ trợ giáo phái chống chính quyền Ngô Đình Diệm và thành lập các đại đội dưới danh nghĩa giáo phái để đấu tranh vũ trang một cách hạn chế.

Ban đầu người cộng sản tổ chức những cuộc biểu tình tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định Genève, đòi thực hiện Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, chống lại việc thi hành chính sách "Cải cách điền địa". Những người cộng sản còn tuyên truyền trong dân chúng rằng: chính phủ Ngô Đình Diệm là bọn quân phiệt, Việt gian bán nước, bù nhìn, tay sai của Mỹ, được Mỹ dựng lên để chia cắt Việt Nam, đàn áp nhân dân miền Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa mới của Mỹ. Đây là chế độ phát xít, phản động, dã man, tàn bạo, độc tài, gia đình trị, tham nhũng, thối nát, ăn cướp, bóc lột, đàn áp nhân dân, gây chiến tranh, thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ ...[136] Người cộng sản kết hợp nhiều hình thức tuyên truyền như truyền miệng, phát truyền đơn, sử dụng báo chí tự do để chỉ trích chính quyền.[143] Họ chủ trương phát động quần chúng đấu tranh với những khẩu hiệu như: đòi cải thiện dân sinh, chống nộp tô cho chủ đất, đòi lại các quyền tự do dân chủ, bảo vệ hoà bình.

Trong giai đoạn này những người cộng sản kết hợp cả hai hình thức đấu tranh bí mật và đấu tranh công khai vô cùng sáng tạo và nhuần nhuyễn. Họ xây dựng nhiều tổ chức công khai như vạn phát, vạn cấy, hội chống trộm cướp... để có danh nghĩa hoạt động công khai. Tiếp đó cài người vào nắm các Hội đồng hương chính, công đoàn, nghiệp đoàn, hội ái hữu, hội tương tế để sử dụng các tổ chức này tập hợp quần chúng, tổ chức biểu tình, đưa các yêu sách đấu tranh. Chính quyền Ngô Đình Diệm đối phó với những cuộc đấu tranh chính trị bằng cách thực hiện Đạo luật 10-59 và chiến dịch "tố cộng, diệt cộng" nhằm loại bỏ những cán bộ cộng sản hoạt động bí mật. Lực lượng cộng sản đáp trả bằng những cuộc biểu tình đòi thả cán bộ cộng sản hoặc tổ chức các cuộc diệt ác trừ gian - tiêu diệt những nhân viên và những người cộng tác với chính quyền Ngô Đình Diệm được gọi là "bọn ác ôn và bọn do thám chỉ điểm".[136]

Người cộng sản còn chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với sự hỗ trợ của hoạt động vũ trang.[136] Trong giai đoạn 1954 - 1956, vì không thể tổ chức hoạt động vũ trang công khai trái với Hiệp định Genève nên người cộng sản liên kết, giúp đỡ các giáo phái chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm sau đó thành lập các đơn vị vũ trang lấy danh nghĩa giáo phái. Liên tỉnh uỷ miền Trung Nam Bộ (gồm các tỉnh Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Sa Đéc, Châu Đốc, Long Xuyên), tiền thân của Khu uỷ Khu 8, chỉ thị các tỉnh phải giúp đỡ quân Hoà Hảo, đưa cán bộ, đảng viên thâm nhập lực lượng Hoà Hảo. Trong các chiến dịch Đinh Tiên Hoàng (20/5/1955), Nguyễn Huệ (1/1/1956), cán bộ cộng sản cố vấn cho lực lượng Hoà Hảo chống lại sự tấn công của chính quyền Ngô Đình Diệm.[136]

Khi quân đội các giáo phái tan rã, Liên tỉnh uỷ miền Trung Nam Bộ chủ trương tổ chức lực lượng vũ trang dưới nhiều hình thức hợp pháp và bán hợp pháp như: dân canh, chống cướp ... tiến tới tổ chức lực lượng vũ trang núp dưới danh nghĩa lực lượng giáo phái ly khai ở các tỉnh Kiến Tường, Kiến Phong, Long An ...[136] Chiến thuật này nhằm khoét sâu mâu thuẫn nội bộ của đối phương, kéo dài sự tranh giành thế lực của chính quyền Ngô Đình Diệm và các giáo phái, tạo điều kiện cho người cộng sản củng cố và phát triển lực lượng kháng chiến, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của quần chúng, làm cho chính quyền Ngô Đình Diệm không rảnh tay củng cố chính quyền và không có cớ đẩy mạnh đàn áp phong trào đấu tranh của người cộng sản.[136] Trong năm 1956, những người cộng sản tổ chức nhiều đơn vị vũ trang dưới danh nghĩa giáo phái. Tháng 2/1956, tỉnh Kiến Phong tổ chức đơn vị vũ trang lấy tên Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh (hay Đinh Tiên Hoàng) gồm 3 đại đội với quân số khoảng 100 người dưới danh nghĩa "lực lượng Hoà Hảo ly khai" gồm một số cán bộ, chiến sĩ từng trợ giúp Hoà Hảo chống chính quyền Ngô Đình Diệm. Tỉnh Gò Công tổ chức một đại đội vũ trang gồm 44 người dưới danh nghĩa Bình Xuyên. Tỉnh Mỹ Tho tổ chức một đại đội vũ trang gồm 40 người dưới danh nghĩa Hoà Hảo, một đại đội 30 người lấy tên "Cao thiên hoà bình" dưới danh nghĩa Cao Đài.[136] Sau khi thành lập các đơn vị vũ trang dưới danh nghĩa giáo phái, Liên tỉnh uỷ miền Trung Nam Bộ lập "Bộ Tư lệnh giáo phái" để thống nhất chỉ huy lực lượng vũ trang các tỉnh. Cờ của Bộ tư lệnh này là cờ đỏ ngôi sao xanh.[136]

Cứ như vậy, sự đối đầu giữa hai phe ngày càng mạnh, hoạt động bạo lực ngày càng gia tăng, chính trị miền Nam - đặc biệt ở nông thôn - ngày càng bất ổn.

Giai đoạn 1956 - 1959

Tháng 6/1956, Bộ Chính trị họp và ra nghị quyết về tình hình, nhiệm vụ và công tác miền Nam. Bộ Chính trị khẳng định: "tính chất cuộc vận động cách mạng của ta ở miền Nam là dân tộc và dân chủ. Nhiệm vụ cách mạng của ta ở miền Nam là phản đế và phản phong kiến” và “Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của các giáo phái chống Diệm” đồng thời “Cần củng cố lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang. Tổ chức tự vệ trong quần chúng nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần thiết”.[136]

Tháng 8/1956, Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ Lê Duẩn soạn "Đề cương cách mạng miền Nam". Đề cương xác định rõ: "Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài, phát xít Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc, phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ để cùng với miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ nhân dân."[144]

Để đẩy mạnh phong trào cách mạng tại miền Nam, Đề cương cách mạng miền Nam vạch ra các nhiệm vụ cơ bản sau:[144]

1. Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, phát huy uy thế chính trị của Đảng trong quảng đại quần chúng.

2. Xây dựng khối liên minh công nông sâu rộng và vững chắc.

3. Tích cực phổ biến Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong các tầng lớp nhân dân. Xây dựng, củng cố, phát triển mạnh mẽ mặt trận dân tộc thống nhất khắp thành thị, nông thôn miền Nam.

4. Khai thác mâu thuẫn trong nội bộ địch để làm yếu và cô lập địch, gây thêm lực lượng cho ta.

Tháng 12/1956, Xứ uỷ Nam Bộ mở hội nghị ở Phnompenh Campuchia nghiên cứu nghị quyết Bộ Chính trị và "Đề cương cách mạng miền Nam". Hội nghị ra quyết định "Con đường tiến lên của Cách mạng miền Nam là phải dùng bạo lực, tổng khởi nghĩa giành chính quyền... Hiện nay, trong chừng mực nào đó phải có lực lượng vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và tiến tới sau này dùng nó đánh đổ Mỹ Diệm... cần tích cực xây dựng lực lượng vũ trang tuyên truyền, lập đội vũ trang bí mật, tranh thủ vận động cải tạo lực lượng giáo phái bị Mỹ Diệm đánh tan đứng vào hàng ngũ nhân dân, lợi dụng danh nghĩa giáo phái ly khai để diệt ác ôn."[136]

Để thực hiện đường lối cách mạng mà Bộ Chính trị và Xứ Uỷ Nam Bộ đã xác định, lực lượng cộng sản toàn miền Nam đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, tổ chức biểu tình, chống cải cách điền địa, ám sát và đấu tranh vũ trang chống chính quyền. Họ tổ chức các cuộc biểu tình chống việc thi hành nghĩa vụ quân sự, tổ chức nông dân dùng hung khí tấn công địa chủ thu tiền thuê đất, đặt mìn giết chết lực lượng bảo an, ám sát viên chức chính phủ, đánh chìm phương tiện nạo vét kinh, tấn công vào Khu Dinh điền ...[136]

Người cộng sản tổ chức lực lượng vũ trang đến tận cấp xã. Ở Long An, mỗi tiểu đội phụ trách 2 đến 3 xã, mỗi tổ 1 xã. Cộng sản còn sử dụng lực lượng vũ trang cấp đại đội tấn công vào các đồn của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Trong thời kỳ này, người cộng sản đẩy mạnh hoạt động ám sát các viên chức chính phủ được gọi là bọn ác ôn. Từ quý 3 năm 1957, mỗi tỉnh Khu 8 bình quân giết 20 - 30 nhân viên chính phủ trong một tháng. Những hoạt động kể trên làm an ninh nông thôn miền Nam xấu đi thấy rõ. Hai bên chính quyền và cộng sản không ngừng bắt bớ thủ tiêu lẫn nhau.[136]

Không chỉ người cộng sản đẩy mạnh hoạt động mà chính quyền cũng chống Cộng rất tích cực. Chỉ riêng Tỉnh Định Tường, trong năm 1957, chính quyền bắt 29 huyện uỷ viên, 24 cán bộ huyện uỷ, 70 bí thư xã, 38 phó bí thư, 73 chi uỷ viên, 229 đảng viên, 69 thanh niên có liên quan đến cộng sản thuộc 3 huyện Cai Lậy, Cái Bè và Châu Thành. Những cố gắng của chính quyền thu được kết quả tốt. Ở Mỹ Tho, trung đội 514 ở Cái Bè bị thiệt hại nặng chỉ còn 8 người. Tỉnh Kiến Tường tập trung những cán bộ của Mỹ Tho trong tiểu đoàn 504 thành lập một trung đội đưa về Mỹ Tho nhưng lực lượng này không hoạt động được phải quay về Kiến Tường. Ngày 31/10/1957, đảng uỷ tiểu đoàn 2 đang họp ở xã Tân Phú, huyện Thanh Bình, tỉnh Kiến Phong thì bị bắt gần hết. Những hoạt động của chính quyền khiến lực lượng cộng sản thiệt hại nặng.[136]

Trước tình hình đó, cuối năm 1958, Xứ Uỷ Nam Bộ chỉ đạo cho các Liên tỉnh uỷ không được hoạt động vũ trang, cho phần lớn cán bộ đảng viên tạm ngừng hoạt động hoặc đổi địa bàn hoạt động để giữ gìn lực lượng, một bộ phận ra hoạt động hợp pháp lâu dài. Các tỉnh Long An, Kiến Phong, Kiến Tường tuy vẫn duy trì lực lượng vũ trang nhưng không còn hoạt động mà rút vào căn cứ Đồng Tháp hoặc biên giới Campuchia sinh sống. Những người đổi địa bàn hoạt động bị bắt hơn phân nửa, một số khác mất tinh thần, bỏ công tác, lo làm ăn. Khoảng 700 người ra trình diện. Một số chấp nhận ly khai cộng sản được tha bổng, số còn lại bị tống giam. Những người còn hoạt động mất tinh thần, giảm liên hệ với quần chúng, giảm hoạt động tuyên truyền. Nhìn chung đến cuối năm 1958, sau 2 năm thực hiện chủ trương dùng bạo lực, tổng khởi nghĩa giành chính quyền, lực lượng cộng sản thiệt hại nặng, phong trào đấu tranh của họ đi xuống.[136]

Ngày 6/5/1959, Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà thông qua luật số 91 mang tên Luật 10/59 quy định việc tổ chức các Tòa án quân sự đặc biệt nhằm xét xử các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi luật này được ban hành, lực lượng cộng sản tiếp tục bị thiệt hại nặng nề. Đơn cử Khu 8, sau hiệp định Genève có 12.000 đảng viên, đến tháng 7/1956 còn 6.000 người, cuối năm 1959 chỉ còn 2.000 người.[136]

Giai đoạn 1960–1965

Giai đoạn 1960–1965 là giai đoạn miền Bắc công khai hậu thuẫn Cộng sản miền Nam và bắt đầu đem quân thâm nhập miền Nam[145]. Các lực lượng Cộng sản miền Nam thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt NamQuân Giải phóng Miền Nam. Trong khi đó, Hoa Kỳ giúp Việt Nam Cộng hòa tiến hành chiến lược Chiến tranh đặc biệt. Tuy nhiên, quân Giải phóng vẫn thắng thế trên chiến trường, đánh những chiến dịch lớn sát các đô thị. Tổng thống Ngô Đình Diệm không kiểm soát nổi khủng hoảng chính trị và bị Hội đồng Quân nhân Cách mạng đảo chính. (Một số tài liệu của cả hai bên cho rằng chính Mỹ đã bật đèn xanh[146] [147] cho cuộc đảo chính này). Việt Nam Cộng hòa sau đó đã rơi vào cuộc khủng hoảng lãnh đạo.

Bối cảnh quốc tế

Thập niên 1960 là thời kỳ nở rộ của khối XHCN và đã xuất hiện mầm mống chia rẽ giữa hai cường quốc hàng đầu trong khối là Liên Xô và Trung Quốc về các vấn đề tư tưởng, đường lối cách mạng[148]. Nhất là từ khi Liên Xô rút hết các cố vấn khỏi Trung Quốc sau năm 1960.

Tại Liên XôĐông Âu hình thức kinh tế tập trung và kế hoạch hóa đang phát huy các mặt tích cực của nó. Liên Xô tập trung mọi nguồn lực, bất chấp hậu quả sau này, cố đạt cho bằng được những chỉ tiêu kinh tế, chính trị được cho là ưu thế của hệ thống xã hội chủ nghĩa để tranh đua với Hoa Kỳ vai trò lãnh đạo thế giới. Việc phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người (Sputnik 1) và đưa người đầu tiên vào vũ trụ (Yuri Gagarin) là biểu tượng của một siêu cường đang thắng thế. Liên Xô và Hoa Kỳ - hai kẻ thù tư tưởng - sẵn sàng đối chọi nhau ở mọi vấn đề quốc tế. Và Việt Nam là nơi mà hai phe muốn phô trương sức mạnh của mình.

Liên Xô tuy đã có vũ khí nguyên tử từ năm 1949[149] nhưng ưu thế quân sự của Hoa Kỳ vẫn áp đảo. Do đó Liên Xô vẫn e ngại sự quá căng thẳng với Hoa Kỳ và chỉ viện trợ cho miền Bắc ở mức đủ để xây dựng một "chủ nghĩa xã hội" cho đến thời điểm này.

Trong thập niên 1960 quan điểm của Liên Xô về chiến tranh Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Từ quan điểm cùng chung sống hòa bình của Nikita Khrushchev trong chính trị quốc tế, nghĩa là phía Liên Xô muốn có sự chung sống giữa hai nhà nước Việt Nam và thống nhất thông qua trưng cầu dân ý với sự giúp đỡ quân sự hạn chế đến ủng hộ đấu tranh vũ trang làm cách mạng bằng bạo lực của Leonid Brezhnev với viện trợ quân sự to lớn cho miền Bắc Việt Nam. Khi Khrushchev bị hạ bệ, Leonid Brezhnev lên thay, ban đầu chính sách của Liên Xô vẫn giữ nguyên nhưng đến đầu năm 1965, tân thủ tướng Liên Xô, Kosygin, thăm Bắc Kinh, Hà Nội, Bình Nhưỡng nhằm hai mục đích hàn gắn quan hệ Xô – Trung và ngăn chặn hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam.

Trong chuyến thăm Hà Nội, tháp tùng Kosygin có các chuyên viên tên lửa. Và ngày 10 tháng 2 năm 1965, Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp ước hỗ trợ kinh tế và quân sự Việt - Xô. Từ đây sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô cho miền Bắc ngày càng tăng và đóng vai trò quan trọng trong chiến tranh Việt Nam.

Đến thời điểm này cách tiếp cận của họ đã khác: viện trợ cho miền Bắc Việt Nam nhiều hơn[150]. Đây cũng là thời kỳ Quân đội Nhân dân Việt Nam được hiện đại hóa mạnh mẽ, trang bị lại với vũ khí mới kể cả các vũ khí hạng nặng, các binh chủng kỹ thuật ra đời để đáp ứng chiến tranh hiện đại: không quân, radar, tên lửa phòng không... Quân đội Nhân dân Việt Nam liên tiếp tiến hành các cuộc tập trận lớn với giả định đánh quân đổ bộ đường không và chống xe tăng Mỹ.

Đầu năm 1961, Tổng thống Kennedy gửi 400 cố vấn quân sự đến miền Nam Việt Nam. Điều này Trung Quốc lo ngại, Ban lãnh đạo Trung Quốc có hai quan điểm khác nhau. Mao Trạch Đông ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang của Việt Nam còn Chu Ân Lai thì muốn sử dụng biện pháp ngoại giao, chính trị cùng với chiến thuật du kích và hoạt động bí mật ở miền Nam.

Thập niên này đang có tranh cãi trong phe xã hội chủ nghĩa giữa những người thuộc "phe xét lại" (Nikita Sergeyevich Khrushchyov và Liên Xô) và những người "Marxist-Leninist chân chính" (Mao Trạch Đông và Trung Quốc) và các biện pháp cách mạng ở thế giới thứ ba bằng hòa bình hay bằng bạo lực cách mạng, gọi là Trung-Xô chia rẽ[151][152][153].

Trung Quốc, lúc đó đang cạnh tranh vai trò lãnh đạo phe Xã hội chủ nghĩa với Liên Xô[153], cũng không muốn vai trò của mình kém hơn đối thủ cùng tư tưởng. Họ viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong giai đoạn này, còn nhiều hơn Liên Xô. Họ khuyến khích Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chiến đấu giải phóng miền Nam mà không sợ quân đội Mỹ tham chiến.

Mùa hè 1962, Trung Quốc gửi cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa súng đạn đủ để trang bị cho 200 tiểu đoàn. Trung Quốc đồng ý gửi tình nguyện quân vào Bắc Việt Nam nếu quân Mỹ vượt qua vĩ tuyến 17. Tính từ 1956 đến 1963, Trung Quốc đã chuyển cho miền Bắc số lượng vũ khí trị giá khoảng 320 triệu nhân dân tệ[150]. Tháng 12-1964, bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc thăm Hà Nội và ký Hiệp ước hữu nghị hợp tác quân sự Việt-Trung. Lúc đầu Trung Quốc hứa gửi phi công sang miền Bắc Việt Nam, nhưng sau đó họ rút lại vì lo ngại ưu thế hơn hẳn của không quân Mỹ. Sau đó một số lượng đáng kể nhân viên quân sự Trung Quốc được gửi sang miền Bắc, bắt đầu từ tháng 6 năm 1965. Mao Trạch Đông sử dụng cuộc chiến Việt Nam khơi gợi tinh thần chống đế quốc trong nhân dân Trung Quốc để chống lại những người theo "phe xét lại" trong bộ máy và để bảo đảm vị trí của ông trong lịch sử. Đây là mục đích chính của chiến dịch "Ủng hộ Việt Nam và chống Mỹ" tại Trung Quốc.

Cả Liên Xô và Trung Quốc đảm bảo nếu Hoa Kỳ đánh ra miền Bắc thì họ sẽ can thiệp bảo vệ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nói chung cả 2 nước đều tìm cách lôi kéo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo phe mình bằng các khoản viện trợ. Tuy nhiên lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại chọn cách "đi trên dây", họ giữ quan hệ tốt với cả 2 nước, không nghiêng về bất cứ bên nào nhằm tranh thủ được càng nhiều viện trợ càng tốt.

Hoa Kỳ cũng quyết tâm không bỏ cuộc tại Nam Việt Nam. Năm 1964, Mỹ bắt đầu chuyển hướng sự chú ý từ miền Nam hướng ra miền Bắc và tuyên bố sẽ không chấp nhận việc tăng chuyển quân và vũ khí từ miền Bắc vào Nam[154]. Hoa Kỳ tăng cường can thiệp vào chiến tranh Việt Nam và tháng 2 năm 1965, không quân Mỹ oanh kích miền Bắc. Để đối phó với sự gia tăng chiến tranh của Mặt trận Giải phóng miền Nam, Hoa Kỳ giúp Việt Nam Cộng hòa tiến hành chiến tranh đặc biệt và tăng cường viện trợ kinh tế cũng như quân sự.

Trong Kế hoạch hành động đối với Việt Nam viết vào ngày 24 tháng 5 năm 1965, McNaughton đã lên danh sách những mục tiêu của Mỹ trong cuộc chiến[155]:

  • 70% - Để tránh một sự thất bại đáng xấu hổ của Mỹ (đối với uy tín của chúng ta là kẻ bảo vệ)
  • 20% - Để bảo vệ [Nam Việt Nam] (và vùng lân cận) khỏi tay Trung Quốc
  • 10% - Để cho người dân [Nam Việt Nam] có cuộc sống tốt đẹp, tự do hơn
  • CŨNG LÀ ĐỂ - Thoát khỏi cuộc khủng hoảng [đối với quân sự Mỹ] mà không có vết nhơ không thể chấp nhận do những phương thức đã sử dụng
  • KHÔNG PHẢI ĐỂ - 'giúp một người bạn' [Trung Quốc], mặc dù sẽ rất khó khăn để ở lại nếu bị buộc phải rời đi.

Chiến trường miền Nam

Thanh niên sinh viên Sài Gòn biểu tình chống chính quyền VNCH.

Từ năm 1960, với chủ trương "Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội" của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa[156], quân Giải phóng ở chiến trường miền Nam phát động liên tiếp các đợt tiến công quy mô kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang mà cao trào là phong trào Đồng khởi. Phong trào này gây cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm lúng túng trong việc lập lại trật tự, dẫn đến một phần đáng kể của nông thôn miền Nam đã thành vùng do Mặt trận Giải phóng kiểm soát (cuối năm 1960). Theo số liệu được ghi trong Sách giáo khoa lịch sử hiện hành[cần dẫn nguồn] thì cuối năm 1960, quân Giải phóng Miền nam đã kiểm soát 600/1298 xã ở Nam Bộ, 904/3829 thôn ở đồng bằng ven biển Trung bộ và 320/5721 thôn ở Tây Nguyên.

Nhân đà thắng lợi, ngày 20 tháng 12 năm 1960 những người cộng sản miền Nam thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam gồm nhiều đại diện các thành phần tôn giáo, tầng lớp xã hội, dân tộc khác nhau do những người cộng sản lãnh đạo. Quân Giải phóng Miền Nam cũng được thành lập ngay sau đó, ngày 15 tháng 2 năm 1961, theo nghị quyết của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam và Quân uỷ Trung ương Quân đội Nhân dân Việt Nam.[157]

Đứng trước tình hình trên, tướng Maxwell D. Taylor được phái sang Việt Nam để hành động gấp giúp Việt Nam Cộng hòa đẩy lùi phía cộng sản. Kế hoạch Staley-Taylor (hay chiến tranh đặc biệt) với việc sử dụng chủ yếu quân lực Việt Nam Cộng hòa đã được trang bị bằng vũ khí tối tân do Mỹ cung cấp và thực hiện các kế hoạch quân sự do cố vấn Mỹ tư vấn. Nhà nước Hoa Kỳ cũng tăng thêm nguồn viện trợ kinh tế cho chính phủ Ngô Đình Diệm nhằm tăng quân số và tiêu dùng cho các chi phí quân sự. Với khả năng cơ động cao, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã giành được những thắng lợi nhất định. Đồng thời, chính phủ Việt Nam Cộng hòa thắt chặt chính sách Ấp chiến lược nhằm cách ly quân Giải phóng với dân chúng.

Thiết giáp xa M-113 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trên chiến trường

Về phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng, lực lượng Quân Giải phóng miền Nam trong thời điểm này được xem là không còn đủ để đáp ứng tình hình do chiến tranh mở rộng về quy mô và số lượng. Vì vậy, binh sĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Bắc đã hành quân vào Nam theo đường mòn Trường Sơn để tăng cường cho Quân Giải phóng. Tuy nhiên, trong thời kỳ 1960-1965 các đơn vị từ miền Bắc vào chủ yếu đứng chân vòng ngoài tại tuyến đường Trường Sơn, Tây Nguyên để xây dựng các căn cứ quân sự phục vụ chiến sự sau này.

Sau gần hai năm đối phó với chiến tranh đặc biệt, Quân Giải phóng miền Nam đã đúc kết kinh nghiệm đối phó với chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Điều này đã tạo ra thắng lợi cho họ trong trận Ấp Bắc (ngày 2 tháng 1 năm 1963 tại tỉnh Tiền Giang). Trong các năm 19631964 Quân Giải phóng miền Nam thắng thế tiến công trên toàn chiến trường và đến tháng 12 năm 1964 họ tiến hành chiến dịch Bình Giã tại tỉnh Bà Rịa làm thiệt hại các chiến đoàn thiết giáp cơ động và các đơn vị dự bị chiến lược của quân đội Việt Nam Cộng hòa[158]. Quân đội Việt Nam Cộng hòa trở nên yếu thế buộc phải lui về thế thủ gần các thành phố lớn.

Ngày 8 tháng 5 năm 1963 xảy ra sự kiện Phật đản tại Huế, bắt nguồn từ sự kỳ thị tôn giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm. Sự kiện này đã làm chấn động trên toàn thế giới, cũng như đã tạo ra phong trào phản đối sự lộng hành gia định trị của chính phủ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ngày 1 tháng 11 năm 1963 Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự chỉ huy của tướng Dương Văn Minh và sự im lặng không phản đối của Hoa Kỳ, đã làm đảo chính lật đổ, giết chết hai anh em ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và xử bắn ông Ngô Đình Cẩn.

Ngay sau đó chính quyền Việt Nam Cộng Hòa rơi vào khủng hoảng lãnh đạo trầm trọng với 14 cuộc đảo chính liên tiếp trong một năm rưỡi, và chỉ ổn định lại khi Hội đồng lãnh đạo Quốc gia, đứng đầu bởi hai tướng Nguyễn Văn ThiệuNguyễn Cao Kỳ, lên chấp chính (tháng 6 năm 1965). Tháng 6 năm 1965, trước các thất bại liên tiếp trên chiến trường và tình hình chính trị rối loạn tại Việt Nam Cộng hòa, chính phủ Hoa Kỳ quyết định huỷ bỏ kế hoạch Staley-Taylor và đưa quân đội Hoa Kỳ sang trực tiếp tham chiến để giữ miền Nam khỏi rơi vào tay lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam[159].

Giữa giai đoạn khủng hoảng chính trị đó, nhiều lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa vẫn có tham vọng Bắc tiến để thống nhất Việt Nam. Ngày 14 tháng 7 năm 1964, người đứng đầu chính phủ là tướng Nguyễn Khánh công khai tuyên bố sẵn sàng Bắc tiến. Hai ngày sau, tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng khẳng định Không lực Việt Nam Cộng hòa đã sẵn sàng. [160]Nhưng kế hoạch này đã bị Washington và cả Liên Hiệp Quốc phản đối nên nó không bao giờ trở thành sự thực.[cần dẫn nguồn] Hoa Kỳ không ủng hộ Việt Nam Cộng hòa Bắc tiến bởi lo ngại sẽ lôi kéo Trung Quốc vào vòng chiến, châm ngòi cho một cuộc chiến tranh quy mô trên toàn Châu Á.[cần dẫn nguồn]

Giai đoạn 1965–1968

Tập tin:Burning Viet Cong base camp.jpg
Một khu căn cứ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam sau một trận tập kích

Đây là giai đoạn ác liệt nhất của Chiến tranh Việt Nam, được gọi với cái tên Chiến tranh cục bộ. Ngay tên gọi "chiến tranh cục bộ" đã cho thấy tính phức tạp rất dễ bùng nổ của tình hình mà Tổng thống Lyndon B. Johnson phải giải quyết. Một mặt quân đội Hoa Kỳ phải can thiệp vũ trang nhằm quét sạch lực lượng Quân Giải phóng; mặt khác, họ phải kiềm chế chiến tranh trong phạm vi Việt Nam, không để nó lan ra ngoài vòng kiểm soát, đụng chạm đến khối Cộng sản để có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh như Chiến tranh Triều Tiên. Chính phủ Hoa Kỳ đã thành công trong việc kiềm chế, nhưng việc đó làm họ không thành công trong mục tiêu bình định lực lượng Quân Giải phóng. Các đồng minh lớn của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Liên Xô, Trung Quốc cũng quyết tâm theo đuổi giúp cho nước này chiến đấu chống Hoa Kỳ. Họ thấy đây là cơ hội rất tốt để làm Hoa Kỳ sa lầy tại Việt Nam. Trong lúc đó, các cường quốc này vươn lên và tranh chấp ngôi vị lãnh đạo thế giới.

Việc các lực lượng Việt Nam Cộng hòa hoan nghênh đưa quân đội Hoa Kỳ vào miền Nam Việt Nam đã phần nào đẩy lui lực lượng quân Giải phóng và mở ra một hy vọng chiến thắng nhưng, đồng thời, từ đó chính phủ Việt Nam Cộng hòa luôn phải tham khảo ý kiến của đồng minh Hoa Kỳ trước khi ra quyết định. Họ hiếm khi đưa ra chính sách lớn, các chiến lược-chiến dịch quân sự lớn đều do Mỹ hoạch định. Họ còn thậm chí không được tham khảo ý kiến về quyết định của Mỹ năm 1965 đưa một lực lượng lớn quân vào tham chiến trên bộ.[161]

Sự leo thang chiến tranh của Hoa Kỳ

Một lính Mỹ trên trực thăng

Chính vì những tế nhị chính trị như vậy nên sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ đã diễn ra theo cách leo thang dần. Đầu tiên họ cho rằng không cần tham chiến vẫn có thể giải quyết chiến tranh nếu ngăn chặn được nguồn tiếp tế của miền Bắc. Hoa Kỳ ra sức ép nếu miền Bắc không chấm dứt tiếp tế cho Quân Giải phóng miền Nam thì sẽ phải đối mặt với việc bị ném bom. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bất chấp sức ép của Hoa Kỳ và tiếp tục tiếp tế vào miền Nam. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ vào tháng 8 năm 1964 dẫn tới việc Quốc hội Hoa kỳ đã uỷ nhiệm cho chính phủ Hoa Kỳ tiến hành mọi hoạt động chiến tranh nếu thấy cần thiết mà không cần có sự phê chuẩn của Quốc hội. Ngay sau đó, Hoa Kỳ bắt đầu các cuộc ném bom miền Bắc. Để duy trì việc ném bom, Hoa Kỳ phải đưa máy bay và lính không quân vào các sân bay tại miền Nam, lập các căn cứ tại đó. Điều này dẫn đến việc Quân Giải phóng tiến công các sân bay.

Để bảo vệ các căn cứ trong sân bay, Hoa Kỳ cần gửi thêm thủy quân lục chiến. Sau đó lại xuất hiện vấn đề phải phòng thủ từ xa và, cuối cùng, là phải tìm-diệt đối phương sâu trong các căn cứ của họ. Thế là quân Mỹ đã dần dần trực tiếp đánh thay cho quân đội Việt Nam Cộng hòa, và quân đội này dần dần chỉ còn là lực lượng thứ yếu, chủ yếu để giữ an ninh tại các vùng họ kiểm soát.

Miền Bắc và chiến tranh không quân

Tốp máy bay F105 Của Không quân Mỹ đang oanh tạc Bắc Việt Nam 1966

Bắt đầu từ tháng 8 năm 1964 miền Bắc đã phải đối phó với chiến tranh trên không rất ác liệt của Không quân và Hải quân Hoa Kỳ. Đầu tiên là chiến dịch Mũi Tên Xuyên (Pierce Arrow) ngày 5 tháng 8 năm 1964, hành động trả đũa sự kiện Vịnh Bắc Bộ[162] do máy bay của Hải quân Mỹ thực hiện, đánh phá các căn cứ hải quân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Lạch Trường (Thanh Hóa), Bãi Cháy (Hòn Gai). Tại Bãi Cháy, bộ đội cao xạ phòng không đã chủ động đánh trước khi máy bay Mỹ oanh kích. Hai máy bay Mỹ loại A-4 Skyhawk bị bắn rơi. Phi công Mỹ Everett Alvarez nhảy dù xuống biển đã bị dân chài bắt sống, trở thành người tù binh Mỹ đầu tiên trong Chiến tranh Việt Nam[163]. Tiếp đến là chiến dịch Sấm Rền đầu năm 1965 đánh phá các tỉnh từ Thanh Hóa trở vào, sau đó chiến tranh không quân lan rộng ra toàn miền Bắc Việt Nam. Để đề phòng các phản ứng của quốc tế, Không quân Mỹ chỉ chừa lại nội thành hai thành phố Hà NộiHải Phòng mà thôi. Chiến tranh không quân nhắm vào hệ thống đường xá giao thông và các mục tiêu công nghiệp, quân sự. Thậm chí các trạm biến thế điện nhỏ, các nhánh đường sắt phụ cũng bị đánh. Bị đánh phá nặng nhất là tại khu vực hai tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, là cuống họng tiếp tế vào Nam, và tại khu vực Vĩnh Linh giáp sông Bến Hải - nơi dân chúng phải sống trong địa đạo.

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thoả thuận với chính phủ Trung Quốc đưa một bộ phận quân đội Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam đóng ở những vị trí quan trọng về chiến lược như tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên và dọc đường Quốc lộ 1 đến phía nam Hà Nội, vừa để giúp Việt Nam làm đường vừa để thị uy với Hoa Kỳ đừng mang quân đổ bộ ra Bắc vì sẽ phải đánh nhau với quân Trung Quốc. Tổng số quân Trung Quốc đã có mặt tại miền Bắc từ tháng 6 năm 1965 đến tháng 3 năm 1973 là gần 320.000 người. Tại mỗi thời điểm, đông nhất có khoảng 130.000 người, bao gồm các đơn vị tên lửa đất đối không, pháo phòng không, các đơn vị công binh làm đường, dò mìn, và vận tải.[164]

Việc ném bom miền Bắc khó có thể đánh sụp được tiềm lực chiến tranh của miền Bắc vì xã hội miền Bắc là xã hội nông nghiệp lạc hậu không có nhiều các mục tiêu công nghiệp lớn. Mọi nguồn lực chiến tranh được các nước Xã hội Chủ nghĩa bên ngoài cung cấp. Ở điều kiện miền Bắc Việt Nam, chiến tranh không quân sẽ chỉ có tác dụng lớn nếu như nó đánh gẫy được ý chí chống Mỹ của nhân dân miền Bắc.[cần dẫn nguồn]

Cuộc sống của người dân miền Bắc ngày càng khó khăn và thêm càng căng thẳng, ngay cả bộ đội cũng bị thiếu ăn. Ở thành thị, dân chúng tản cư về nông thôn để tránh bom, nhu yếu phẩm cho dân thành thị được bán theo chế độ tem phiếu rất nghiêm ngặt. Ở nông thôn, ngoài số thực phẩm được để lại để nuôi sống gia đình, còn lại phải đưa vào kho cho nhu cầu quốc phòng. Nông thôn vắng bóng nam thanh niên. Nữ thanh niên vừa lao động sản xuất vừa được điều động tham gia vào lực lượng dân quân tự vệ bảo vệ trật tự và tham gia huấn luyện quân sự, bắn máy bay. Chính phủ huy động hàng vạn nữ thanh niên đi Thanh niên xung phong sinh hoạt tập trung như bộ đội vào tuyến lửa tại các tỉnh bị đánh phá nặng nề nhất như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, và vào tuyến đường Trường Sơn, sang Lào để làm nhiệm vụ hậu cần, làm đường và đảm bảo giao thông. Tỷ lệ thương vong vì bom đạn và bệnh tật rất nhiều.

Về xã hội, người ta cố gắng tạo điều kiện cho thanh niên lấy vợ sớm trước khi nhập ngũ. Nhà nước tìm mọi cách nâng cao tinh thần của dân chúng cho kháng chiến. Tất cả mọi người đều tham gia các tổ chức quần chúng của Đảng Lao động Việt Nam như Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên, Hội phụ lão, Hội phụ nữ,... Các tổ chức quần chúng trên có vai trò nhất định trong việc giữ vững tinh thần và niềm tin trong dân chúng và thi hành các đường lối của Đảng trong dân. Nhân dân miền Bắc được phổ biến đời sống kinh tế tại miền Nam rất tồi tệ[165], nhân dân miền Nam (nhất là ở vùng nông thôn) đang khốn khổ bởi những cuộc bắn phá, càn quét, rải chất độc hóa học phá hoại mùa màng và chính sách Ấp Chiến lược - "thực tế là trại tập trung" của Mỹ Ngụy.[166]

Người ta cố gắng xây dựng và nhân rộng các điển hình của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, huy động tối đa và có hiệu quả các nguồn lực để phục vụ các mục tiêu chính trị và quân sự của Đảng và Nhà nước. Các nhà báo Pháp nhận xét: "Mọi lối sống cá nhân đều biến mất để cùng xây dựng một cố gắng tập thể tuyệt vời, điều hành bởi một bộ máy thống nhất và quy củ"[167]. Nói chung, tinh thần của người dân miền Bắc rất cao, họ vẫn có thể chấp nhận hy sinh cao hơn nữa để giành được thắng lợi cuối cùng.

Lực lượng phòng không của Quân đội Nhân dân Việt Nam không thể đua tranh với Không quân và Hải quân Hoa Kỳ nên dồn sức bảo vệ các mục tiêu thật quan trọng như Hà Nội, Hải Phòng, các thành phố lớn, các điểm giao thông quan trọng và các nơi máy bay địch hay qua lại nhiều. Những nơi còn lại được phân cho các lực lượng dân quân tự vệ trang bị pháo và súng máy phòng không đảm trách. Đến năm 1965, lực lượng phòng không của miền Bắc có trang bị khá hiện đại do Liên Xô cung cấp, gồm nhiều trung đoàn pháo phòng không các tầm cỡ điều khiển bằng radar, hệ thống radar cảnh giới và dẫn đường cho không quân, hệ thống tên lửa phòng không và không quân tiêm kích. Các lực lượng phòng không không quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiến đấu khá sáng tạo, vô hiệu hóa được các thủ thuật chiến tranh điện tử và chống trả quyết liệt với Không quân và Hải quân Hoa Kỳ.

Các chiến dịch tìm-diệt

Ngay sau khi quân đội Hoa Kỳ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam tình hình chiến sự thay đổi có lợi cho phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Quân Giải phóng miền Nam bị đẩy lui vào thế thủ, bị không quân và kỵ binh bay của Mỹ truy đuổi. Các đơn vị lớn phải rời bỏ vùng đồng bằng trống trải để lui về miền núi và nơi có rừng. Ở đồng bằng họ chỉ để lại các đơn vị nhỏ và phát động chiến tranh nhân dân đánh du kích. Tướng Edward Lansdale đề xuất một ý kiến, cho rằng nếu như có thể thắng được trái tim, lòng dân thì cộng sản sẽ không có chỗ để trốn nhưng kế hoạch đã thất bại và dẫn đến việc dùng chất độc màu da cam và chính sách tìm-diệt.[168]

Nông dân bị tình nghi là cộng sản

Tháng 11 năm 1965 đã xảy ra một trận đánh rất ác liệt tại vùng thung lũng sông Ia Drang, gần biên giới Campuchia thuộc tỉnh Kon Tum. Một trung đoàn chính quy Quân Giải phóng miền Nam và một lữ đoàn thuộc Sư đoàn 1 Kỵ binh bay của Mỹ đã dàn quân đánh nhau để thử sức. Thực chất đây là hai trận đánh liên tiếp, trận Xraytrận Albany, diễn ra trong bốn ngày đêm. Mỗi bên thắng một trận, hai bên đều bị thương vong nặng, và tuy cùng tuyên bố thắng lợi, đều biết được thực lực đối phương là đáng gờm. Sau trận này phía quân Giải phóng nhận thức được ưu thế áp đảo quân sự của quân Mỹ. Phía Mỹ có hoả lực cực mạnh và tổ chức chiến đấu hoàn hảo. Đặc biệt có yểm trợ không quân rất hiệu quả mà vũ khí khủng khiếp nhất của họ là máy bay B52, bom napal và trực thăng vũ trang, nên từ đó Quân Qiải phóng miền Nam bỏ tham vọng đánh tiêu diệt các đơn vị cấp đại đội, tiểu đoàn; họ tránh đánh những trận dàn quân xung phong mà chỉ áp dụng chiến thuật đánh tập kích. Quân của họ luôn bám sát những toán quân Mỹ nhưng không giao chiến, chỉ khi đối phương dựng trại nghỉ ngơi hoặc sơ hở thì họ tập kích hoặc phục kích, đánh xong nhanh chóng rời chiến trường. Một khi xung phong thì luôn áp sát đánh gần để không cho đối phương sử dụng pháo binh và không quân. Dù rất hiện đại nhưng quân đội Mỹ không quen chiến đấu trong địa hình rừng núi quen thuộc của đối phương, nơi mà vũ khí của họ không phát huy hết tác dụng. Quân Mỹ "tìm-diệt" nhưng chẳng thấy địch đâu tuy bất cứ lúc nào họ cũng có thể xuất hiện.

Trong hai năm 19661967 chiến sự giữa hai bên diễn ra chủ yếu tại miền Đông Nam Bộ, nơi có các căn cứ và kho tàng lớn của quân Giải phóng. Bộ chỉ huy chiến trường của Mỹ đã tung ra ba chiến dịch lớn để đánh vào các căn cứ này, đó là các chiến dịch:

  1. Chiến dịch Cedar Falls – đánh vào khu Tam giác sắt Củ Chi, nơi có hệ thống địa đạo mà Quân Qiải phóng dùng làm bàn đạp thâm nhập Sài Gòn;
  2. Chiến dịch Attleboro – đánh vào chiến khu Dương Minh Châu
  3. Chiến dịch Junction City – đánh vào chiến khu C nơi đặt Bộ chỉ huy của Quân Qiải phóng miền Nam.

Đặc biệt là chiến dịch Junction City, khi Mỹ định đánh một trận lớn để diệt gọn cơ cấu lãnh đạo chiến tranh của Mặt trận Giải phóng miền Nam tại vùng rừng Tây Ninh. Bao vây và đánh vào khu căn cứ đầu não của Trung ương cục Đảng Lao động Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Quân Giải phóng. Các cuộc tiến công tuy đã huy động rất lớn các lực lượng của Mỹ nhưng không đem lại kết quả: các cơ cấu lãnh đạo, kho tàng, căn cứ của Quân Giải phóng vẫn an toàn, quân Mỹ bị tiến công liên tục, trong thế trận đối phương đã bày sẵn, trong địa bàn quen thuộc của đối phương và phải bỏ dở các cuộc hành quân. Đến cuối năm 1967, tuy đẩy lui chủ lực Quân giải phóng tại vùng đồng bằng, nhưng quân Mỹ vẫn không bình định được lực lượng này trong vùng rừng núi miền Nam Việt Nam.

Qua 3 năm chiến đấu trực tiếp với quân Mỹ, tuy vẫn đứng vững trên chiến trường, nhưng thương vong của quân Giải phóng cũng tăng lên, nếu cục diện này tiếp tục kéo dài thì không thể giành được chiến thắng quyết định. Để xoay chuyển tình thế tạo đột phá cho cuộc chiến tranh, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam tại Hà Nội quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.

Đấu tranh ngoại giao và tiếp xúc bí mật

Ngày 8/2/1967 tổng thống Mỹ Johnson gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong đó có ghi:

Đại ý là người Mỹ nhiều lần chuyển đến chính phủ Hồ Chí Minh mong muốn hoà bình bằng những kênh khác nhau nhưng không đạt kết quả nào và đề nghị chấm dứt cuộc xung đột tại Việt Nam để không tiếp tục gây đau khổ cho nhân dân hai miền Nam Bắc Việt Nam cũng như nhân dân Mỹ. Tổng thống Mỹ cam kết sẽ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam và ngừng tăng thêm quân tại miền Nam Việt Nam ngay khi miền Bắc chấm dứt đưa quân vào miền Nam. Hai bên cùng kiềm chế leo thang chiến tranh để đối thoại song phương một cách nghiêm túc hướng đến hoà bình. Việc tiếp xúc có thể diễn ra ở Moscow, Miến Điện hay bất cứ nơi nào Bắc Việt Nam muốn.

Ngày 15/2/1967 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi tổng thống Johnson tố cáo Mỹ xâm lược Việt Nam, vi phạm những cam kết của đại diện Mỹ tại Hội nghị Geneva, phạm nhiều tội ác chiến tranh tại cả hai miền Nam Bắc Việt Nam. Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm đánh thắng Mỹ bằng mọi giá. Nếu Mỹ muốn trực tiếp đối thoại với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì trước tiên phải ngừng ném bom vô điều kiện miền Bắc Việt Nam. Chỉ có thể đạt được hoà bình nếu Mỹ chấm dứt những hoạt động quân sự chống miền Bắc, rút quân Mỹ và đồng minh khỏi miền Nam để người Việt Nam tự giải quyết vấn đề của mình, công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam.[169]

Trước đó, ngày 28 tháng 1 năm 1967, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh tuyên bố lập trường và điều kiện cho việc đối thoại Việt-Mỹ là[170]:

Sự kiện Tết Mậu Thân

Vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968, quân Giải phóng tung ra trận Tổng tiến công và nổi dậy khắp miền Nam, đánh vào hầu hết các thành phố, thị xã và các căn cứ quân sự của đối phương. Đây là một sự kiện gây chấn động trên thế giới và gây nhiều bàn cãi nhất về Chiến tranh Việt Nam, sự kiện có một vai trò bước ngoặt trong cuộc chiến tranh này.

Nắm được điểm yếu của phía Mỹ là dư luận của cả nhân dân và chính giới tại Mỹ ngày càng trở nên thiếu kiên nhẫn và phong trào phản chiến ngày càng lên mạnh[171] không cho phép quân đội tham chiến quá lâu tại nước ngoài mà không có được một tiến bộ rõ rệt khả dĩ cho phép rút quân về nước, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam hoạch định một trận đánh gây tiếng vang lớn ("Một cú đập lớn để tung toé ra các khả năng chính trị" – Lê Duẩn) nhằm buộc Mỹ xuống thang chiến tranh đi vào đàm phán.

Trong thực tế, vào tháng 1 năm 1968, tình báo của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã thu thập được các tài liệu nói về cuộc tổng tấn công sắp tới của Quân Giải phóng. Tuy vậy, họ cho rằng đây chỉ là tài liệu do đối phương tung ra để làm nghi binh và không đáng tin cậy. William Westmoreland, tổng chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam, nhận định Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ tấn công vào mùa khô với các trọng điểm là Thừa Thiên, Quảng Trị và Khe Sanh. [172] Hầu hết người Mỹ và đồng minh Việt Nam Cộng hòa của họ hoàn toàn bất ngờ và bị động trước cuộc tấn công này.

Cuộc tiến công đã đồng loạt nổ ra vào đêm 30 Tết Mậu Thân, tức ngày 30 tháng 1 năm 1968, trên khắp các đô thị miền Nam. Để khuếch đại tiếng vang đến mức tối đa, các lãnh đạo Quân Giải phóng đã lựa chọn phương án mạo hiểm nhất là đánh thẳng vào hậu phương của đối phương. Ngay đêm đầu tiên, lực lượng biệt động Sài Gòn đã nhằm vào các mục tiêu khó tin nhất trong thành phố[173]: Toà Đại sứ quán Mỹ, dinh Tổng thống, Đài phát thanh, Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất... Sau đó quân tiếp ứng thẩm thấu vào thành phố tiếp quản các mục tiêu và tham gia chiến đấu. Cuộc tiến công đã gây bất ngờ lớn[173] cho phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, quân Giải phóng đã mắc phải những sai lầm trong kế hoạch tác chiến:

- Trong việc lập kế hoạch cho cuộc tổng tiến công, họ đã có những đánh giá không đúng với thực tế tình hình và duy ý chí: họ hy vọng cùng với tiến công quân sự đánh vào các lực lượng Việt Nam Cộng hòa ở trong các đô thị, họ có thể phát động dân chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa đánh sụp chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đặt Mỹ trước tình thế phải đi đến quyết định ra đi khỏi chiến tranh. Kế hoạch trên dựa trên nhận định thấp về khả năng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và đánh giá quá cao khả năng của Quân Giải phóng miền Nam, nên trong thực tế Quân Giải phóng đã phải chịu thương vong to lớn mà, trong khi chỉ phát động được khởi nghĩa của người dân ở một số vùng nông thôn; chính quyền Việt Nam Cộng hòa tại các đô thị vẫn đứng vững.

- Một đặc điểm nữa[173] của việc lập kế hoạch tiến công Mậu Thân 1968 là các cấp chỉ huy chiến đấu của Quân Giải phóng miền Nam đã không tách bạch được đâu là mục tiêu chính trị thực chất của cuộc tiến công và đâu là mục tiêu được phổ biến rộng rãi trong quân để cổ vũ khí thế chiến đấu. Mục tiêu thực chất là đánh lớn gây tiếng vang hướng tới dư luận và chính giới Mỹ để buộc đối phương xuống thang, đàm phán. Còn mục tiêu chính trị được phổ biến tuyên truyền trong cán bộ binh sĩ để nâng cao sĩ khí là đó là trận cuối cùng "đánh dứt điểm" đối phương. Các cán bộ chiến trường khi lập kế hoạch tác chiến cũng tin tưởng vào quyết tâm đánh dứt điểm của cấp trên nên họ lập kế hoạch và tiến hành đánh theo kiểu trận đánh cuối cùng. Điều này làm cho các thiệt hại của Quân Giải phóng càng thêm nặng nề.

- Điều sai lầm nữa cho Quân Giải phóng là họ đã không linh hoạt thay đổi tuỳ theo tình hình[173][174]. Khi thấy chưa đạt được mục tiêu trong đợt tấn công đầu tiên họ đã phát động tiếp đợt 2 vào tháng 5, đợt 3 vào tháng 8 khi mà kế hoạch đã bại lộ và đối phương đã đề phòng và chuẩn bị đón đánh, làm cho thiệt hại của mình càng to lớn hơn nữa.

Sau Tổng tiến công Mậu Thân, Quân Giải phóng bị đẩy ra xa và suy yếu trầm trọng[171]: Các đơn vị quân sự chịu thương vong lớn, các lực lượng chính trị bị bộc lộ và bị triệt phá gần hết, thương vong cao hơn hẳn những năm trước. Thậm chí đã có ý kiến trong giới lãnh đạo Quân Giải phóng là cho giải tán các đơn vị cỡ sư đoàn, quay trở về lối đánh nhỏ cấp trung đoàn trở xuống. Họ không còn khả năng đánh lớn tại miền Nam và phải rút lui về các chiến khu tại vùng nông thôn, miền núi hoặc đi ẩn náu tại bên kia biên giới LàoCampuchia, phải tới năm 1970 lực lượng của họ mới hồi phục lại được. Trong các năm sau Mậu Thân, từ 1969 đến đầu 1970, là thời gian Quân lực Việt Nam Cộng hòa chủ động tiến công lùng đánh Quân Giải phóng, triệt phá phong trào chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ở nông thôn và thành thị. Đó là cơ sở để giới quân sự Mỹ và Việt Nam Cộng hòa cho rằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã thất bại.

Mặt khác, Quân Giải phóng cũng có lý do để cho rằng Mậu Thân 1968 là một thắng lợi chiến lược trong chiến tranh của họ[171], bởi họ đã đánh bại ý chí tiếp tục chiến tranh của Mỹ, bắt buộc Mỹ phải xuống thang và bắt đầu rút khỏi Việt Nam. Lực lượng quân Giải phóng suy yếu thì sẽ hồi phục lại, còn Mỹ một khi đã ra đi thì khó mà trở lại được.

Cuộc tổng tiến công đã làm dư luận Mỹ thấy rằng việc đưa quân tham chiến với nỗ lực cao đã làm căng thẳng trong xã hội Mỹ, phúc lợi giảm sút, gây nhiều hệ luỵ xấu cho xã hội... mà vẫn không dứt điểm được quân đối phương, và trong tương lai chiến tranh không biết đến bao giờ kết thúc[171]. Điều này đưa đến kết luận là Mỹ không thể thắng được trong cuộc chiến này. Các chính trị gia trong Quốc hội Mỹ gây sức ép lên chính phủ đòi xem xét lại cam kết chiến tranh, đòi huỷ bỏ uỷ quyền cho chính phủ tiến hành chiến tranh không cần phê chuẩn, thúc ép giải quyết chiến tranh bằng thương lượng[175].

Quy mô của cuộc tiến công làm dư luận Hoa Kỳ mất kiên nhẫn và sự tin tưởng với giới quân sự, họ đòi chấm dứt chiến tranh và rút quân về nước[175]. Một mặt họ thiếu niềm tin vào hiệu quả của quân đội, mặt khác, các hành động bạo liệt mất nhân tính được trình chiếu trên TV đánh vào lương tâm công chúng (Xem Thảm sát Mỹ Lai, Saigon Execution). Họ đòi hỏi phải chấm dứt chiến tranh ngay lập tức. Họ coi chiến tranh là bẩn thỉu.

Ngay các nhà lãnh đạo chính phủ Hoa Kỳ cũng chia rẽ trong quan điểm sẽ làm gì tiếp theo[175]. Các cố vấn hàng đầu của tổng thống và ngay Tổng thống Johnson thoái chí đi đến kết luận không thể tăng quân thêm nữa theo yêu cầu của giới quân sự mà phải xuống thang, đàm phán. Johnson cách chức Bộ trưởng quốc phòng và tướng Westmoreland, tổng chỉ huy quân Mỹ tại Việt Nam, bản thân ông cũng tuyên bố sẽ không ra tranh cử nhiệm kỳ tiếp theo.

Kết quả ngày 31 tháng 3 năm 1968 Tổng thống Lyndon B. Johnson tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, sẵn sàng đàm phán để chấm dứt chiến tranh, không tăng thêm quân theo yêu cầu của Bộ chỉ huy chiến trường, và từ chối tranh cử nhiệm kỳ tới. Tân tổng thống Richard M. Nixon, thắng cử vì hứa chấm dứt chiến tranh, tuyên bố sẽ dần rút quân về nước và đàm phán với Quân Giải phóng. Chiến lược Chiến tranh cục bộ được kỳ vọng sẽ đem lại chiến thắng cho Mỹ giờ bị loại bỏ. Vấn đề của Mỹ bây giờ không còn là chiến thắng cuộc chiến nữa mà là rút ra như thế nào.

Tất cả những điều trên tạo cơ sở cho Quân Giải phóng thấy rằng họ đã đạt được mục tiêu đề ra của cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 cho dù với giá hy sinh cực kỳ to lớn. Thất bại về chiến thuật đã được bù đắp bằng thắng lợi quan trọng hơn ở tầm chiến lược, bởi nó tác động toàn diện đến tình hình quân sự, chính trị, tâm lý xã hội, chiến lược chiến tranh của cả nước Mỹ.

Hậu quả quân sự và chính trị

Cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 đã dẫn đến các kết quả chính trị và quân sự cho cả thời kỳ 19691971[175][171].

Với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

  • Về quân sự: Quân Giải phóng chịu nhiều thương vong, mất thế đứng chân tại nhiều nơi trên chiến trường miền Nam, họ phải rút về các vùng nông thôn, rừng núi hoặc sang ẩn tránh tại các vùng bên kia biên giới tại LàoCampuchia, tránh giao chiến lớn để khôi phục lại lực lượng. Chiến trường miền Nam trở nên yên tĩnh hơn. Quân lực Việt Nam Cộng hòa có thời giờ bổ sung lại những thiệt hại lớn trong năm 1968, đồng thời tiến hành các chiến dịch bình định nông thôn đặc biệt là chiến dịch Phượng hoàng để đánh bật gốc rễ các cán bộ cộng sản nằm vùng trong nông thôn miền Nam.
  • Về chính trị: Vai trò của đấu tranh chính trị của những người cộng sản trong chiến tranh từ nay suy giảm đi nhiều vì các cơ sở chính trị của họ bị phá và với sự ác liệt không khoan nhượng của chiến tranh ở giai đoạn này không cho phép dân chúng tụ tập trên chiến trường để yêu sách chính trị. Từ đó trở đi sức mạnh vũ trang mang tính quyết định.

Với Hoa Kỳ và Đồng minh

Chính quyền Mỹ bị lên án bởi dư luận thế giới và các đảng phái chính trị đối lập ngay trong lòng nước Mỹ. Từ sau Mậu Thân trở đi, quyền lực tiến hành chiến tranh của Tổng thống Mỹ càng ngày càng bị hạn chế bởi Quốc hội và dư luận trong nước và quốc tế. Lần đầu tiên kể từ đầu cuộc chiến, chính phủ Hoa Kỳ buộc phải xuống thang chiến tranh: ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam, rút dần quân Mỹ về nước và đồng ý ngồi vào bàn đàm phán hòa bình với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sự rút quân Mỹ về nước là không thể đảo ngược và như vậy cũng có nghĩa chiến lược Chiến tranh cục bộ với các cuộc hành quân Tìm-diệt coi như phá sản. Chiến lược mới của chính phủ Mỹ để thay thế chiến lược cũ - Việt Nam hóa chiến tranh là không thể tránh khỏi. Chiến tranh Việt Nam đi vào giai đoạn mới mà chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải tự mình chiến đấu mà không còn lính viễn chinh Mỹ trực tiếp tham chiến cùng (dù vẫn được Mỹ cung cấp yểm trợ hỏa lực và cố vấn quân sự). Về mặt chiến lược lâu dài, đây là bất lợi lớn vì quân đội Việt Nam Cộng hòa, dù trang bị hiện đại vẫn không thể so sánh về chất lượng so với quân viễn chinh Mỹ.

Giai đoạn 1968–1972

Biên giới Việt Nam – Campuchia 1970
Xe tăng tiến vào thị trấn Snoul, biên giới Việt Nam-Campuchia năm 1970

Đây là giai đoạn "sau Mậu Thân" hay giai đoạn "Việt Nam hóa chiến tranh", giai đoạn Hoa Kỳ rút dần khỏi chiến trường Việt Nam. Để đồng minh của họ đứng vững, Hoa Kỳ giúp Việt Nam Cộng hòa xây dựng quân đội theo hình mẫu của quân lực Hoa Kỳ, với các loại vũ khí chiến tranh tối tân mà Hoa Kỳ để lại và với cơ sở hậu cần chiến tranh mà quân đội Hoa Kỳ đã sử dụng. Hoa Kỳ sẽ yểm trợ về không lực tối đa cho quân đội Cộng hòa trong các giao tranh với Quân Giải phóng.

Một sự kiện quan trọng đã xảy ra trong thời kỳ này và có hậu quả to lớn cho Đông Dương sau này là việc Hoa Kỳ giúp Lon Nol làm đảo chính tháng 3 năm 1970Campuchia, lật đổ hoàng thân Norodom Sihanouk và phát động chiến tranh chống cộng sản tại Campuchia.

Thắng lợi tạm thời trên chiến trường sau Mậu Thân đã dẫn Hoa Kỳ đến sai lầm nặng nề[cần dẫn nguồn] này, tạo điều kiện cho Quân giải phóng mau chóng hồi phục và làm cho Campuchia rơi vào một thời kỳ tồi tệ trong lịch sử. Thấy Quân Giải phóng mất đất đứng chân, lui về các căn cứ bên kia biên giới Campuchia, Hoa Kỳ muốn triệt hạ nốt những chỗ đứng cuối cùng của đối phương để giải quyết triệt để chiến tranh. Điều này hóa ra lại làm lợi lớn cho Quân Giải phóng. Trước đây Quân Giải phóng chỉ đóng trên đất Campuchia ở một số vùng sát biên giới với Việt Nam, họ cố gắng lôi kéo, chiều lòng chính quyền Sihanouk và tự kiềm chế để không mất lòng chủ nhà. Chính quyền Sihanouk tuy không muốn nhưng không làm gì được đành chấp nhận phải sống như vậy với Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Nay với diễn biến chính trị như trên, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liền quay ra lên tiếng ủng hộ Sihanouk, thực chất là ủng hộ Khmer Đỏ[cần dẫn nguồn], đánh nhau không hạn chế trên đất Campuchia. Từ lúc đó, không còn gì và không có đối thủ kiềm chế lực lượng Quân Giải phóng Miền Nam trên đất Campuchia nữa. Campuchia trở thành nơi rất an toàn và tiện dụng cho Quân giải phóng phục hồi sinh lực sau Mậu Thân.

Ngày 30 tháng 4 năm 1970, Quân lực Việt Nam Cộng hòa kết hợp cùng quân đội Hoa Kỳ tiến vào khu căn cứ của Quân Giải phóng tại Campuchia nhưng đã bị sa lầy. Ngày 30 tháng 6 năm 1970, chính phủ Mỹ phải ra lệnh rút quân Mỹ về. Quân lực Việt Nam Cộng hòa cùng quân của chính phủ Lon Nol không thể tự đương đầu với Quân Giải phóng. Các sư đoàn 5, 7, 9 của Quân Giải phóng không những đánh đuổi quân Việt Nam Cộng hòa mà còn giúp Khmer Đỏ đánh quân chính phủ Lon Nol, giành các tỉnh Đông và Đông Bắc Campuchia để nối thông với Lào.

Việt Nam hóa chiến tranh

Tiến trình Việt Nam hóa chiến tranh đã diễn ra tương đối thuận lợi. Quân lực Việt Nam Cộng hòa sau Mậu Thân được trang bị theo kiểu Mỹ đã tỏ ra tự tin hơn và đã làm chủ trên chiến trường miền Nam từ năm 1969 đến tận cuối năm 1971. Nhưng điều đó chưa nói lên điều gì lớn vì Quân Giải phóng trong thời kỳ này chưa hồi phục sau Mậu Thân và không chủ trương đánh lớn. Cũng có thể họ yên lặng mà không làm gì có thể trì hoãn việc rút quân của Mỹ.

Sự yên tĩnh trên chiến trường miền Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc rút quân Mỹ mà không gây ra một sự xấu đi trầm trọng nào. Tranh thủ thời gian yên tĩnh trên chiến trường, phía Việt Nam Cộng hòa đổ công tiến hành bình định nông thôn. Từ đó, các nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa và Mỹ đã hiểu rất rõ tầm quan trọng của việc chống lại cơ cấu đấu tranh chính trị của những người cộng sản ở địa bàn nông thôn. Một chương trình lớn tái thiết nông thôn được thi hành với viện trợ kinh tế lớn của Hoa Kỳ. Trong thời kỳ này, chỉ riêng năm 1969, hơn 6.000 người bị giết, hơn 1.200 người bị ám sát, và 15.000 người bị thương. Trong số những người thiệt mạng có 90 quan chức xã và xã trưởng, 240 quan chức ấp và ấp trưởng, 229 người tản cư và 4.350 thường dân.[176] Với lý do bảo vệ dân thường chống lại những hoạt động đe doạ và khủng bố của cộng sản, Chiến dịch Phượng hoàng với sự giúp đỡ của CIA, đã được triển khai nhằm tróc rễ các cơ sở bí mật nằm vùng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam[176].

Các nỗ lực của Phượng hoàng chủ yếu diễn ra bằng các biện pháp khủng bố, ám sát, thủ tiêu. Các toán nhân viên Phượng hoàng áo đen được CIA huấn luyện và được phái xuống các xóm ấp, họ ở cùng trong dân nghe ngóng thu thập tình báo, bắt các phần tử nghi ngờ là cộng sản hoặc thân cộng sản, tra khảo để phanh ra tổ chức, nếu không khai thác được và vẫn nghi là Cộng sản thì thủ tiêu. Các phần tử cộng sản hoặc thân cộng sản nếu không tiện bắt thì ám sát. Số người bị thủ tiêu lên đến hàng ngàn người. Một mặt, các biện pháp này đã có hiệu quả tốt về an ninh, tình hình nông thôn trở nên được đảm bảo an toàn hơn rõ rệt cho phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Mặt khác, những vụ xử tử, ám sát oan dân thường lại khiến chính quyền Việt Nam Cộng hòa càng bị người dân xa lánh, khiến chương trình bình định bị chặn lại.

Trong thời kỳ này, viện trợ của Hoa Kỳ dồi dào nên đời sống của dân chúng trở nên tốt hơn, nhất là dân trong các thành phố lớn và nó làm cho đời sống dân nông thôn đổ về thành phố tị nạn dễ thở hơn. Lúc này, tình trạng tham nhũng trong chính quyền và quân đội lên cao. Trong quân đội rất phổ biến kiểu "lính ma": khai khống quân số để sĩ quan lĩnh lương nhưng thực tế không có quân chiến đấu. Những điều này gây ảnh hưởng lớn đến sức chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Một vấn đề lớn nữa của Việt Nam hóa chiến tranh là khi Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhất nhất theo các tiêu chuẩn Mỹ thì họ cũng quen kiểu đánh nhau tốn tiền như Mỹ, và sức chiến đấu của quân đội phụ thuộc lớn vào viện trợ của Mỹ[177]. Viện trợ mà giảm thì ảnh hưởng rõ rệt đến sức chiến đấu của quân đội, điều này góp phần giải thích tại sao quân đội này mau chóng sụp đổ trong năm cuối cùng của cuộc chiến.

Chiến dịch Lam Sơn 719

Tình hình miền Nam tương đối yên lặng trong các năm 1969–1971. Quân Giải phóng tích cực dự trữ lương thực, đạn dược tại các căn cứ ở Lào, Campuchia và các vùng rừng núi mà Quân lực Việt Nam Cộng hòa chưa với tới được. Năm 1970, sau khi quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã thất bại trong việc đánh phá căn cứ của phe cộng sản tại Campuchia, tiếp tế từ miền Bắc đã nối thông từ Lào đến Đông Bắc Campuchia và đổ vào các khu căn cứ Tây Ninh. Do đó, nếu không cắt được tiếp tế cho Quân Giải phóng ở Campuchia thì có thể cắt tiếp tế từ Lào. Và tháng 1 năm 1971, Quân lực Việt Nam Cộng hòa, dưới sự yểm trợ bằng không quân của Hoa Kỳ, tiến hành chiến dịch Lam Sơn 719: đánh từ Quảng Trị cắt ngang sang Hạ Lào nhằm phá huỷ hệ thống kho tàng của Quân Giải phóng. Cuộc hành quân này ngay từ đầu đã mang tính phiêu lưu phô trương chính trị và đã thất bại vì những lý do sau

  • Cuộc hành quân không bảo đảm tính bất ngờ.
  • Các căn cứ của Quân Giải phóng là những nơi họ đã lâu năm thông thuộc địa bàn và có bố phòng rất kỹ lưỡng. Ngay quân đội Hoa Kỳ với sức mạnh tổng lực như thế đã không thể làm gì nổi. Trong thời kỳ tìm-diệt các chiến dịch Atteleboro và Junction City đều đã thất bại, do đó đưa quân vào đó là sa vào thế trận đã bày sẵn. Hơn nữa vùng Hạ Lào là nơi tập trung rất nhiều binh lực hiện đại của Quân Giải phóng, còn mạnh hơn rất nhiều các khu căn cứ khác mà quân Nam Việt Nam chưa có đủ sức mạnh, kinh nghiệm và bản lĩnh để đương đầu.
  • Khi hoạch định kế hoạch người ta chú ý nhiều đến khía cạnh phô trương sức mạnh của quân đội Nam Việt Nam đánh được vào "đất thánh Cộng sản" chứ ý nghĩa quân sự thì ít. ("Chỉ cốt sao đến được Sê Pôn rồi về" – Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.) Chính vì để phô trương nên ban đầu khi gặp khó khăn rất lớn đã không chấm dứt chiến dịch mà cố gắng tiến nhọc nhằn đến Sê Pôn rồi phải cố sức mở đường máu với thiệt hại lớn mới về thoát dù chỉ là vài chục km cách biên giới.
  • Sự phối hợp của quân Mỹ và quân Nam Việt Nam không tốt. Không quân Mỹ chỉ ném bom B52 dọn đường theo yêu cầu, còn nhiệm vụ phối hợp hoả lực chiến thuật cho bộ binh tác chiến gần như không làm được[cần dẫn nguồn].
  • Lực lượng máy bay trực thăng vào khu vực đậm đặc phòng không hiện đại đã chờ sẵn của đường mòn Hồ Chí Minh đã bị thiệt hại quá nặng không thể hoàn thành nhiệm vụ.

Kết quả cuộc hành quân bị thiệt hại nặng nề nhất là các lực lượng bị tiêu diệt là các đơn vị dự bị chiến lược tốt nhất của Việt Nam Cộng hòa, cuộc hành quân còn thất bại ở chỗ tuy có phá được một số kho tàng hậu cần nhưng về cơ bản đã không làm hại gì được cho hệ thống tiếp tế của Quân Giải phóng.

Sau các cuộc hành quân bất thành của Quân lực Việt Nam Cộng hòa vào Campuchia và Hạ Lào, đến đầu năm 1972, Quân Giải phóng đã hồi phục sau Mậu Thân và lại tung ra một đợt tổng tiến công lớn nữa.

Chiến dịch mùa hè 1972 của miền Bắc

Tập tin:North Vietnamese T-54s and a T-54A or Type 59.jpg
Xe tăng T-54 của QĐNDVN

Tháng 3 năm 1972 lại xảy ra một nỗ lực nữa của Quân Giải phóng nhằm làm thoái chí Hoa Kỳ, buộc họ rút hẳn ra khỏi cuộc chiến. Đây là đòn đánh để kết hợp với nỗ lực ngoại giao. Quân Giải phóng đã tung ra một cuộc tổng tiến công và nổi dậy chiến lược mùa xuân năm 1972. Tuy rằng tên và kế hoạch như vậy nhưng yếu tố "nổi dậy" gần như không có, quân du kích chỉ đóng vai trò chỉ đường và tải đạn. Điều đó cho thấy tác dụng của các nỗ lực bình định của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa trong thời gian 1969-1971 đã có những hiệu quả nhất định.

Đây là cuộc tiến công chiến lược gồm các chiến dịch tiến công quy mô lớn, hiệp đồng binh chủng, tiến công sâu vào hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng hòa trên ba hướng chiến lược quan trọng: Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ.

Tại Bắc Tây Nguyên, sau các thắng lợi ban đầu của Quân Giải phóng tại trận Đắc Tô - Tân Cảnh, chiến sự mau chóng êm dịu trở lại sau khi đội quân này bị chặn lại trong Trận Kon Tum.

Tại Đông Nam Bộ, ở tỉnh Bình Long sau khi thắng lợi tại Lộc Ninh, Quân Giải phóng tiến công theo đường 13 để đánh chiếm thị xã An Lộc trong trận An Lộc, dùng xe tăng và pháo binh dữ dội đánh dàn trận xung phong. Quân lực Việt Nam Cộng hòa quyết tâm cố thủ thị xã và đưa quân lên ứng cứu. Không quân Mỹ dùng B-52 đánh phá ác liệt các khu vực tập kết của Quân Giải phóng và gây thiệt hại lớn. Chiến trận xảy ra rất dữ dội tại thị xã, thương vong của hai bên và của dân chúng rất cao. Nhưng, cuối cùng, Quân Giải phóng không thể lấy nổi thị xã phải rút đi và sau 3 tháng chiến sự đi vào ổn định. Lần đầu tiên tại vùng Đông Nam Bộ, xe tăng T-54PT-76 của Liên Xô chế tạo xuất hiện, cho thấy hệ thống tiếp tế của Quân Giải phóng đã hoàn chỉnh vì đã có thể đưa được xe tăng đến tận chiến trường phía nam.

Trong suốt quá trình diễn ra cuộc chiến tranh, chưa bao giờ miền Bắc và các đồng minh miền Nam của họ lại phát động một cuộc tiến công ồ ạt dưới sự hỗ trợ của các lực lượng được trang bị tốt đến như vậy, cuộc tiến công này mạnh hơn bất cứ những gì mà Việt Nam Cộng hòa có thể tập trung lại được vào mùa xuân năm 1972.[178]

Chiến trường chính của năm 1972 là tại tỉnh Quảng Trị. Tại đây có tập đoàn phòng ngự dày đặc của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, nơi tuyến đầu đối chọi với miền Bắc. Cuộc tiến công của Quân Giải phóng tại Quảng Trị đã thành công to lớn, quân phòng ngự tại đây hoảng loạn, thậm chí Trung đoàn 56 của Sư đoàn 3 đầu hàng không chiến đấu. Chỉ sau một tháng và qua 2 đợt tấn công, Quân Giải phóng đã chiếm toàn bộ tỉnh Quảng Trị, uy hiếp tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế.

Đến lúc đó, việc giữ vững vùng chiếm được và tái chiếm vùng đã mất tại Quảng Trị đã thành vấn đề chính trị thể hiện ý chí và bản lĩnh của cả hai bên và là thế mạnh để đàm phán tại Hội nghị Paris. Hoa Kỳ để tỏ rõ ý chí của mình bằng cách từ ngày 16 tháng 4 năm 1972 ném bom trở lại miền Bắc với cường độ rất ác liệt: dùng máy bay B-52 rải thảm bom xuống Hải Phòng, đem hải quân thả thuỷ lôi phong toả các hải cảng tại miền Bắc Việt Nam.

Tại chiến trường Quảng Trị, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đem hết quân dự bị ra quyết tái chiếm thị xã Quảng Trị với sự hỗ trợ tối đa bằng máy bay B-52 của Hoa Kỳ. Quân Giải phóng quyết tâm giữ vững khu vực thành cổ Quảng Trị của thị xã. Chiến sự cực kỳ ác liệt, thương vong hai bên rất lớn để tranh chấp một mẩu đất rất nhỏ không dân đã bị tàn phá hoàn toàn. Sau gần 3 tháng đánh nhau quyết liệt, Quân Giải phóng không giữ nổi và Quân lực Việt Nam Cộng hòa chiếm được thành cổ và thị xã Quảng Trị. Nhưng, dù có hỗ trợ của không quân Mỹ, việc tái chiếm thị xã Đông Hà và các vùng đã mất khác là không thể làm được. Quân Giải phóng vẫn nắm giữ thêm 10% lãnh thổ miền Nam, có thêm các bàn đạp quân sự và thị xã quan trọng Lộc Ninh. Đến cuối năm 1972, chiến trường đi đến bình ổn vì hai bên đã kiệt sức không thể phát triển chiến sự được nữa.

Cuộc tấn công năm 1972 của Bắc Việt Nam đã không nhận được sự ủng hộ từ 2 đồng minh chủ chốt là Trung Quốc và Liên Xô trái với mong đợi của Hà Nội do 2 quốc gia này chỉ mong muốn kết thúc nhanh 1 thỏa ước hòa bình với Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa tại Paris[179]. Mặc dù chiến dịch không đem đến lợi thế rõ rệt về quân sự nhưng đã làm xã hội Hoa Kỳ quá mệt mỏi. Dư luận Mỹ và thế giới thúc ép chính quyền phải đạt được một nền hòa bình bằng thương lượng theo đúng cam kết giải quyết chiến tranh trong nhiệm kỳ tổng thống của họ. Đến cuối năm 1972, Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đạt được thoả hiệp cơ bản những ý chính của Hiệp định Paris, và đầu năm 1973, Hoa Kỳ rút hẳn khỏi cuộc chiến.

Vừa đánh vừa đàm

Đọc bài chính:Hội nghị Paris, mặt trận ngoại giao năm 1972Hiệp định Paris 1973 để tham khảo về các nguồn dẫn chứng tương ứng.

Việc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt Nam là việc phải xảy ra khi chẳng ai dứt điểm được ai bằng quân sự. Sau Mậu Thân, các bên đã ngồi vào thương lượng cho tương lai chiến tranh Việt Nam. Việc thương lượng đã diễn ra rất phức tạp vì, một mặt, các bên chưa thật sự thấy cần nhượng bộ và, mặt khác, Liên Xô và Trung Quốc muốn can thiệp vào đàm phán – đặc biệt là Trung Quốc. Nước này không muốn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tự đàm phán mà muốn thông qua Trung Quốc giống như hiệp định Geneva năm 1954. Nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cự tuyệt dù bị áp lực bởi hai đồng minh.

Hội đàm được chọn tại Paris trải từ tháng 5 năm 1968 đến tháng 1 năm 1973. Ban đầu chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòaHoa Kỳ; sau mở ra thành hội nghị bốn bên, thêm Việt Nam Cộng hòaChính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

(Để đi đàm phán có chính danh một chính phủ có tính tính pháp lý cao hơn, năm 1969 phía Cộng sản cho thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trên cơ sở Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam).

Khi một bên đang thắng thế trên chiến trường thì đàm phán thường bế tắc và điều đó đúng với Hội nghị Paris suốt thời kỳ từ 1968 đến 1972. Các bên dùng hội nghị như diễn đàn đấu tranh chính trị. Trong suốt quá trình hội nghị các cuộc họp chính thức chỉ mở màn, tố cáo nhau, tranh luận vài điều mà không thể giải quyết được rồi kết thúc mà không đi vào thực chất. Chỉ có các cuộc tiếp xúc bí mật của Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Tiến sĩ Henry Kissinger, cố vấn của tổng thống Hoa Kỳ, là đi vào thảo luận thực chất nhưng không đi được đến thoả hiệp.

Đến giữa năm 1972, khi Quân Giải Phóng Miền Nam đã đuối sức[cần dẫn nguồn] và Hoa Kỳ đã mệt mỏi bởi chiến tranh kéo dài và thực sự muốn đi đến kết thúc [180], thì đàm phán mới đi vào thực chất thoả hiệp.

  • Lập trường ban đầu của Hoa Kỳ: quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam phải đồng thời với việc rút Quân đội Nhân dân Việt Nam khỏi Nam Việt Nam. Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu có quyền tồn tại trong giải pháp hòa bình.
  • Lập trường ban đầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: quân đội Hoa Kỳ phải rút khỏi Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam có quyền ở lại chiến trường miền Nam. Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu không được tồn tại trong giải pháp hòa bình.

Trong đó, vấn đề quy chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam là điểm mâu thuẫn chính giữa các bên. Cuối năm 1972 chính phủ Hoa Kỳ, dưới áp lực dư luận, đã mệt mỏi vì chiến tranh, đã thoả hiệp về vấn đề cơ bản này. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về phía mình cũng thoả hiệp về quy chế của chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hai bên đi đến thoả hiệp chung: Quân Mỹ và các đồng minh nước ngoài rút khỏi Việt Nam chấm dứt mọi can thiệp quân sự vào vấn đề Việt Nam; Quân đội Nhân dân Việt Nam được ở lại chiến trường Nam Việt Nam; và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được phép tồn tại như một chính phủ có liên quan đến giải pháp hòa bình.

Sau khi văn kiện hiệp định đã được ký tắt, Henry Kissinger đi Sài Gòn để đệ trình cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu văn bản đã đạt được. Phía Việt Nam Cộng hòa phản đối dự thảo này và tuyên bố sẽ không ký kết hiệp định như dự thảo.

Phía Mỹ đứng về phía Việt Nam Cộng hòa và tuyên bố chưa thể ký được hiệp định, đòi thay đổi lại nội dung chính liên quan đến vấn đề cốt lõi: quy chế Quân đội Nhân dân Việt Nam. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bác bỏ sửa đổi của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đe dọa sẽ ném bom lại miền Bắc Việt Nam nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chối ký theo phương án Hoa Kỳ đề nghị.

Máy bay B-52 đang ném bom rải thảm

Tháng 12 năm 1972, Hoa Kỳ cho máy bay B52 ném bom rải thảm Hà Nội, Hải Phòng và các mục tiêu khác trong 12 ngày (18 tháng 12 đến 30 tháng 12), đó là Chiến dịch Linebacker II. Không khuất phục được Hà Nội, bị thiệt hại nặng nề cho lực lượng không quân và nhất là bị dư luận quốc tế và trong nước phản đối mạnh mẽ, chính phủ Hoa Kỳ buộc phải chấm dứt ném bom quay lại đàm phán và đồng ý ký kết Hiệp định Paris theo phương án đã ký tắt, dù có một vài sửa đổi nhỏ có tính kỹ thuật. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không tán thành hiệp định nhưng vì áp lực nếu không chấp nhận thì Hoa Kỳ sẽ đơn phương ký với Hà Nội và từ bỏ trách nhiệm với Việt Nam Cộng hòa nên phải chấp nhận ký.

Phía Hoa Kỳ ký kết hiệp định Paris

Hiệp định Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, được coi là một thắng lợi quan trọng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 29 tháng 3 năm 1973 quân nhân Mỹ cuối cùng rời Việt Nam, chấm dứt mọi sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ đối với vấn đề Việt Nam. Từ nay chỉ còn quân đội Việt Nam Cộng hòa đơn độc chống lại Quân Giải phóng đang ngày càng mạnh.

Chiến dịch Linebacker II

Trong chiến dịch này, Hoa Kỳ đem lực lượng không quân chiến lược với máy bay B-52 ném bom rải thảm xuống Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên trong 12 ngày đêm. Về lý do quân sự, chính trị thì cuộc ném bom này không cần thiết và có hại vì khi đó Hoa Kỳ đã quyết tâm rút khỏi chiến tranh. Hoa Kỳ biết rất rõ rằng chỉ bằng một cuộc ném bom dù ác liệt đến đâu Hoa Kỳ không thể nào bắt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhượng bộ một vấn đề cốt lõi mà vì nó họ đã chiến đấu gần 20 năm. Nó chỉ làm dư luận Mỹ và thế giới bất bình với chính phủ Hoa Kỳ. Đây chỉ là cách để thể hiện trách nhiệm nghĩa vụ đối với đồng minh (không chỉ đối với Việt Nam Cộng hòa mà còn cả các đồng minh khác nữa). Khi dự thảo hiệp định đã được ký tắt với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã phản đối kịch liệt và không chấp nhận, Hoa Kỳ quyết định dùng bước này để chứng tỏ họ đã cố gắng đến mức cuối cùng cho quyền lợi của đồng minh rồi.

Hoa Kỳ đã dùng một biện pháp rất cực đoan, tàn bạo mà các chuẩn mực chiến tranh thông thường không cho phép: dùng máy bay B52 rải thảm bom huỷ diệt vào một loạt các khu vực dân cư của các thành phố lớn để đánh vào ý chí của dân chúng và đã gây ra thương vong lớn cho dân cư. Ở Hà Nội, tại phố Khâm Thiên bom trải thảm đã phá sập cả dãy phố và sát hại nhiều dân thường. Tại bệnh viện Bạch Mai, nhiều tòa nhà quan trọng đã bị phá hủy, cùng với các bệnh nhânbác sĩ, y tá bên trong. Chiến dịch này đã phá hoại nặng nề nhiều cơ sở vật chất, kinh tế, giao thông, công nghiệp và quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng đã không làm thay đổi được lập trường của Hà Nội.

Về mặt quân sự, Hoa Kỳ đã đánh giá thấp lực lượng phòng không của đối phương. Không lực Hoa Kỳ quá tin tưởng vào các biện pháp kỹ thuật gây nhiễu điện tử để bịt mắt radar và tên lửa phòng không của đối phương. Để đáp lại, các lực lượng tên lửa phòng không của Bắc Việt Nam đã giải quyết vấn đề bằng những biện pháp chiến thuật sáng tạo và hợp lý, họ đã bắn các máy bay B-52 theo xác suất và đã thành công vượt xa mức trông đợi. Cũng trong chiến dịch này, lần đầu pháo đài bay B-52 bị hạ bởi một máy bay tiêm kích, do Phạm Tuân điều khiển. Sách báo Việt Nam gọi chiến dịch này là Điện Biên Phủ trên không, như một cách nêu bật thắng lợi của lực lượng phòng không Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến dịch.

Dưới áp lực của dư luận thế giới và trong nước, thất bại trong việc buộc Hà Nội nhượng bộ, Tổng thống Nixon ra lệnh chấm dứt ném bom vào ngày 30 tháng 12 năm 1972 và hội đàm lại để ký kết hiệp định. Hiệp định Paris có phương án cuối cùng về cơ bản không khác mấy so với phương án đã được ký tắt. Chiến dịch Linebacker II là chiến dịch quân sự cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Hiệp định Paris

Hiệp định Paris là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973. Theo các nội dung chính như sau:

  • Các quân đội nước ngoài phải rút khỏi Việt Nam. Quân đội Nhân dân Việt Nam, Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Quân Giải phóng miền Nam đóng nguyên tại chỗ và ngừng bắn tại chỗ.
  • Miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát. Các bên tạo điều kiện cho dân chúng sinh sống đi lại tự do giữa hai vùng.
  • Hiệp thương chính trị giữa các lực lượng chính trị, thành lập chính phủ hòa hợp dân tộc của miền Nam Việt Nam và tiến tới thống nhất hai miền.
  • Ngoài ra còn nhiều các điều khoản khác như lập uỷ ban kiểm soát và giám sát và phái đoàn quân sự liên hợp bốn bên, điều khoản Hoa Kỳ đóng góp tài chính tái thiết sau chiến tranh, điều khoản Hoa Kỳ gỡ mìn đã phong toả các hải cảng Bắc Việt Nam, điều khoản trao trả tù binh...

Mặt khác, Hiệp định Paris là hiệp định được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ soạn thảo để đảm bảo cho việc Hoa Kỳ ra khỏi chiến tranh. Đối với Hoa Kỳ, đây là cách họ ra khỏi cuộc chiến mệt mỏi này một cách chính đáng. Đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng thì hiệp định này là bước thứ nhất trong hai bước để đi đến thắng lợi cuối cùng. Đối với Việt Nam Cộng hòa thì hiệp định này là một tai ương lớn đối với chính thể của họ và đặt sự tồn tại của Việt Nam Cộng hòa trước một nguy hiểm trong một tương lai gần.

Để trấn an Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Nixon đã hứa riêng với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là trong trường hợp Bắc Việt Nam phát động chiến tranh tiêu diệt Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ sẽ phản ứng một cách thích hợp để bảo đảm an ninh cho Việt Nam Cộng hòa. Lời hứa này về sau không có giá trị thực tiễn vì sau đó Quốc hội Hoa Kỳ đã ra nghị quyết không cho phép đưa lực lượng vũ trang trở lại Đông Dương mà không được phép của Quốc hội và quy định khuôn khổ viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa. Với các áp đặt như vậy thì dù không có sự kiện Watergate, dù Tổng thống Nixon có tại vị thì cũng không thể giữ lời hứa một cách hữu hiệu được. Đối với người Mỹ, họ thực sự muốn đóng lại cuộc chiến, quên nó đi và mở sang một trang sử mới.

Tập tin:Myrutquan.jpg
Hoa Kỳ rút quân theo Hiệp định Paris.
Nguồn: Sách Chính phủ Việt Nam 1945 – 1998 NXB Chính trị Quốc gia, tháng 7 năm 1999

Chính vì vậy trong hiệp định có những điều khoản có vẻ là nhượng bộ của Bắc Việt Nam nhưng chẳng có ai có thể kiểm chứng và cưỡng chế được; ví dụ điều khoản quy định quân đội Bắc Việt Nam được quyền thay quân và trang bị vũ khí theo nguyên tắc một-đổi-một. Số quân Bắc Việt trên chiến trường lúc đó, số quân của họ trên đường mòn Hồ Chí Minh, số vũ khí họ mang vào và mang ra là những dữ liệu không thể kiểm chứng được. Còn vũ khí Mỹ vào Việt Nam qua các cảng và cầu hàng không thì dễ dàng được quản lý. Tương tự, điều khoản về uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế cũng chỉ là hình thức vì quyền lực của uỷ ban này không có đủ để can thiệp gì vào các tiến trình sự việc. Các điều khoản về quy chế chính trị như thành lập chính phủ hòa hợp dân tộc tiến tới thống nhất cũng không có cơ chế thi hành mà chỉ là ý tưởng.

Nói chung hiệp định này chỉ được thi hành tốt ở những điều khoản rút quân Mỹ (cùng các đồng minh khác) và trao trả tù binh Mỹ mà thôi. Hoa Kỳ thực sự muốn rút và miền Bắc sẵn sàng tạo điều kiện cho việc đó.

Sau khi quân đội Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3 năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chuẩn bị cho việc đánh dứt điểm chính quyền Việt Nam Cộng hòa, còn Nam Việt Nam cố gắng xoay trở chống đỡ chẳng kể gì đến hiệp định. Vai trò của hiệp định Paris, trên thực tế, đến đây là đã hết.

Giai đoạn 1973–1975

Đây là giai đoạn kết thúc chiến tranh vì với sự ra đi của quân viễn chinh Hoa Kỳ thì kết cục cho Chiến tranh Việt Nam đã rõ ràng. Sau 2 năm quân Mỹ rút hết, quân Giải phóng tiến công trận đánh cuối cùng giải quyết chiến tranh. Việt Nam Cộng hòa không thể tự bảo vệ, quân đội của họ đã nhanh chóng bị đánh bại và đã đầu hàng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Trong các năm từ 1973 đến tháng 2 năm 1975 là thời gian hai phía đối địch chuẩn bị vào các trận đánh nhau to sắp tới. Năm này chỉ được 1–2 tháng đầu là có các ảo tưởng hòa bình: quân sĩ hai bên tiếp xúc với nhau qua câu cửa miệng là "hòa bình rồi...". Sau đó là thời gian hai bên liên tục lên án nhau phá hoại hiệp định và đánh lấn chiếm vùng kiểm soát của nhau, nhưng ở quy mô nhỏ. Quân đội Việt Nam Cộng hòa không đủ sức để đánh lớn và quân Giải phóng cũng không có chủ trương đánh lớn vào lúc đó.

Thời kỳ này có một sự kiện bất ngờ với Việt Nam Cộng hòa và ngỡ ngàng cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là việc Trung Quốc tấn công chiếm đóng hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974. Vào năm này, Quân lực Việt Nam Cộng hòa gặp khó khăn trong việc điều quân dự bị, cụ thể là rút tiểu đoàn Thủy quân lục chiến đang đóng ở Hoàng Sa về đất liền để chống lại lực lượng Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Hoa Kỳ và hạm đội 7 của họ cũng không giúp đỡ Việt Nam Cộng hòa tại Hoàng Sa nữa. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công khai phản kháng lại các động thái của Trung Quốc, nhưng Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ra bản Tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung Quốc vào ngày 20/1/1974. Sau hải chiến Hoàng Sa 1974, Trung Quốc đã thay thế Việt Nam Cộng hòa thực hiện chủ quyền tại quần đảo này; nhưng Việt Nam Cộng hòa và nước Việt Nam thống nhất sau này vẫn tuyên bố chủ quyền tại đây. Sự việc cũng tác động lên quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với đồng minh Trung Quốc, và giữa Việt Nam Cộng hòa với đồng minh Hoa Kỳ: nó cho thấy các đồng minh của họ đã không còn đáng tin cậy như trước.

Thời kỳ 1974–1975 trước trận Ban Mê Thuột có hai trận đánh lớn có vai trò đáng chú ý: trận Thượng Đức thuộc tỉnh Quảng Nam bắt đầu khoảng tháng 7 năm 1974 và trận Phước Long tháng 12 năm 1974. Đây là hai trận của giai đoạn này mà Quân giải phóng phát động với một mục tiêu duy nhất là thăm dò lực lượng đối phương.

Tháng 7 năm 1974, Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đưa một sư đoàn đến đánh chiếm chi khu quân sự quận lỵ Thượng Đức thuộc tỉnh Quảng Nam. Đúng theo tính toán của quân Giải phóng, Quân lực Việt Nam Cộng hòa liền điều sư đoàn dù tổng trù bị chiến lược đến tái chiếm. Hai bên đánh nhau ác liệt trong vòng 3 tháng; kết quả quân Giải phóng vẫn giữ vững Thượng Đức và Quân lực Việt Nam Cộng hòa bỏ cuộc. Sau trận đánh, các nhà lãnh đạo của Quân Giải phóng đã đi đến kết luận là sức chiến đấu, nhất là sức mạnh tấn công của Quân lực Việt Nam Cộng hòa so với 1972 đã suy giảm đi nhiều khi không còn có yểm trợ của không quân Mỹ. Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng không đủ lực lượng dự bị cơ động để chiến đấu lâu dài: Một quận lỵ quan trọng ở quân khu 1 Việt Nam Cộng hòa mà cả quân đoàn và quân khu 1 không đủ lực lượng cơ động đến giải vây mà phải dùng đến sư đoàn dù là lực lượng mạnh nhất tổng dự bị chiến lược. Điều này là một luận cứ góp vào kế hoạch tác chiến cho chiến dịch năm 1975 đánh dứt điểm Việt Nam Cộng hòa.

Giữa tháng 12 năm 1974, tại mặt trận miền Đông Nam Bộ, quân Giải phóng phát động chiến dịch Phước Long tiến đánh và sau 3 tuần chiếm hoàn toàn tỉnh này. Tuy mất một tỉnh ngay tại đồng bằng Nam Bộ cách Sài Gòn chỉ khoảng 100 km nhưng Việt Nam Cộng hòa không có phản ứng thích đáng nào để khôi phục. Họ không còn quân dự bị cơ động để phản kích nữa. Và quan trọng nhất là Hoa Kỳ chỉ phản ứng ở mức không có dấu hiệu là sẽ can thiệp mạnh. Chiến dịch này đã củng cố tin tưởng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Hoa Kỳ sẽ ít có khả năng can thiệp trở lại.

So sánh lực lượng hai bên sau khi Hoa Kỳ rút quân

Trong giai đoạn 1973–1975, tuy lượng viện trợ quân sự từ Liên Xô và Trung Quốc giảm rõ rệt, tổng số tấn vũ khí và thiết bị quân sự được viện trợ giảm từ khoảng 171.166 tấn/năm trong thời kì 1969-72 giảm xuống còn khoảng 16.415 tấn/năm trong thời kì 1973-75.[181], nhưng cán cân lực lượng vẫn dần nghiêng về Quân Giải phóng. Họ được bổ sung quân số đầy đủ từ miền Bắc. Quân từ miền Bắc lúc đó hành quân bằng cơ giới trên đường mòn Hồ Chí Minh cả ngày lẫn đêm, đèn pha sáng trưng mà không sợ bị không lực Hoa Kỳ oanh tạc. Trong các năm này, đường mòn Hồ Chí Minh cũng đã được mở rộng hơn để đảm bảo cho việc cung cấp quy mô lớn cho chiến trường. Các trang thiết bị đạn dược và lương thực cũng đã đủ số trong các kho, từ kho của đơn vị chiến đấu đến kho hậu cứ và kho tại hậu phương miền Bắc. Xăng dầu đã được bơm thẳng theo tuyến đường ống cung cấp từ miền Bắc vào tận Bù Gia Mập tại miền Đông Nam Bộ và rất gần đến các kho đứng chân chiến đấu.

Đặc biệt ưu thế quan trọng nhất tạo nên áp đảo đối phương là tinh thần chiến đấu. Binh sĩ quân Giải phóng nhận thức được cơ hội thuận lợi chấm dứt chiến tranh giành chiến thắng hoàn toàn nên khí thế lên rất cao và sẵn sàng xung trận.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa thì ngày càng gặp khó khăn, tuy phương tiện chiến tranh vẫn còn nhiều trong kho, nhưng họ bị hạn chế về kinh phí tài chính vì viện trợ của Hoa Kỳ đã bị cắt giảm nhiều, khó khăn trong việc trả lương binh lính và nhất là khó khăn trong việc tăng cường và bổ sung quân số. Tuy Quân lực Cộng hòa hơn hẳn đối phương về không quân, nhưng quân chủng này đòi hỏi rất nhiều tài chính khi hoạt động, viện trợ của Hoa Kỳ lúc đó không đủ nên không quân chỉ phát huy non nửa uy lực. Các khu dự trữ xăng dầu của Việt Nam Cộng hòa luôn là nơi bị đặc công Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đánh phá nên nhiều lúc vấn đề nhiên liệu cũng gay gắt.

Nhưng điều khó khăn lớn nhất cho Quân đội Việt Nam Cộng hòa là tinh thần chiến đấu của binh sĩ xuống thấp. Sau Hiệp định Paris, các sĩ quan và binh lính đã thấy tương lai mờ mịt cho họ, tâm trạng bi quan chán nản và tinh thần chiến đấu sa sút nghiêm trọng dẫn đến tình trạng đào ngũ, trốn lính rất nhiều, bổ sung không kịp.

Theo các số liệu thống kê về cán cân lực lượng trên chiến trường (quân số, trang bị hạng nặng) thì tương quan lực lượng nghiêng về Việt Nam Cộng hòa. Nhưng với những thuận lợi và khó khăn thực chất của hai bên, ưu thế trên chiến trường đã nghiêng dần sang phía Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Việc họ nhanh chóng đè bẹp quân đội Việt Nam Cộng hòa trong chiến dịch mùa xuân năm 1975 là phản ánh đúng cán cân lực lượng trên chiến trường.

Cuộc tấn công cuối cùng

Cuộc tấn công cuối cùng của Quân Giải Phóng Miền Nam diễn ra trong 55 ngày đêm bắt đầu từ ngày 5 tháng 3 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng vô điều kiện. Nó còn được gọi là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Cơ quan tham mưu của Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa lập kế hoạch tiến công đã phân cuộc tiến công này thành các chiến dịch nối tiếp nhau họ gọi là chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng và, cuối cùng, chiến dịch Hồ Chí Minh.

  • Chiến dịch Tây Nguyên: với mục tiêu là chiếm Tây Nguyên mà trận mở đầu then chốt là thị xã Ban Mê Thuột tại Nam Tây Nguyên. Tại đây có hậu cứ của sư đoàn 23 của Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã thành công trong việc làm cho đối phương tin rằng mục tiêu tiến công sẽ ở Bắc Tây Nguyên ở hướng thị xã Kon Tum hoặc thị xã Pleiku. Ngày 10 tháng 3 quân Giải Phóng tiến công Ban Mê Thuột. Sau hơn một ngày tiến công rất ác liệt, quân đồn trú đã kháng cự rất quyết liệt nhưng với ưu thế áp đảo quân Giải Phóng đã đánh chiếm được thị xã. Liên tiếp trong các ngày sau đó họ đã chủ động tiến công quân phản kích, quân phản kích của Nam Viêt Nam vừa đổ xuống chưa kịp đứng chân cũng đã bị đánh tiêu diệt. Mất Ban Mê Thuột và không có đủ lực lượng cơ động dự bị khả dĩ có thể phản kích tái chiếm, lại cùng với việc các lực lượng phòng thủ Bắc Tây Nguyên cũng đang bị uy hiếp nặng nề, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh bỏ Tây Nguyên rút các lực lượng còn lại về cố thủ giải đồng bằng ven biển miền trung. Đường rút lui sẽ là theo đường 14 từ Pleiku đi xuống phía nam sau đó đi vào đường số 7 đã bị bỏ từ lâu không sử dụng, mục tiêu là thoát xuống thị xã Tuy Hòa tỉnh Phú Yên. Đây là một thảm hoạ chết người cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Cuộc rút lui đã không bảo toàn được số quân mà trái lại nó làm thành làn sóng hoảng loạn lan khắp các vùng lại còn làm rệu rã hết tinh thần binh sĩ trên toàn quốc. Việc rút một số lượng quân lớn như thế trong một thời gian chuẩn bị gấp gáp 2–3 hôm đã diễn ra trên đoạn đường dài hàng trăm km không có kế hoạch, trong khi tinh thần binh sĩ đã xuống rất thấp và, quan trọng hơn cả, binh sĩ mang gia đình và người chạy nạn theo cùng. Tất cả những cái đó đã biến dòng người cùng xe cộ khổng lồ ùn tắc thành một dòng náo loạn không thể chỉ huy và chiến đấu. Bị đối phương chặn tại Cheo Reo - Phú Bổn đoàn quân này đã bị tan tác không còn tập hợp lại được nữa. Tây Nguyên thất thủ vào tay quân Giải phóng, hơn 12 vạn quân đồn trú bị tan rã. Tiêu biểu như toàn bộ sư đoàn 23 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa hơn 1 vạn quân về đến Tuy Hòa tập hợp đếm lại được còn 36 người.
  • Chiến dịch Huế-Đà Nẵng: Kể từ sau cuộc rút chạy khỏi Tây Nguyên tin thất bại đã bay khắp miền Nam, binh sĩ mất hết tinh thần, quân đội gần như không chiến đấu mà bỏ chạy. Các nhà lãnh đạo chiến tranh của Mặt Trận Giải Phóng nhận định ra quân đội Cộng hòa đã không còn chiến đấu có tổ chức chặt chẽ được nữa; họ liền tiến hành phương án thời cơ tung ngay quân đoàn 2 (hay Binh đoàn Hương Giang được thành lập từ các đơn vị của quân khu Trị – Thiên và khu 5) nhanh chóng tiến công đánh chiếm cố đô Huế và thành phố lớn thứ hai của Việt Nam Cộng hòa, Đà Nẵng. Quân đội Việt Nam Cộng hòa vội vã rút lui khỏi Quảng Trị về Huế và trước sức ép của đối phương quyết định rút chạy bỏ Huế nhưng đường núi về phía nam đã bị đối phương cắt mất, họ chỉ còn một con đường chạy ra biển để chờ tàu hải quân vào cứu. Cũng giống như cuộc rút chạy khỏi Tây Nguyên, cuộc rút chạy này đã trở thành hỗn loạn và cướp bóc. Số nào được cứu lên tàu hải quân thì khi lên đến bờ cũng không thể tập hợp lại thành đơn vị chiến đấu được nữa, số còn lại bỏ vũ khí tự tan vỡ. Ngày 26 tháng 3 quân Giải Phóng vào Huế. Đà Nẵng cũng không tránh được bị chiếm. Khi quân đoàn 2 của Quân Giải phóng tiến đến Đà Nẵng, cảnh hỗn loạn đang diễn ra, quân lính Việt Nam Cộng hòa đang cướp bóc. Quân lính và dân cố gắng thoát khỏi thành phố bằng tàu hải quân, các đơn vị vòng ngoài không còn tinh thần chiến đấu nữa; quân Quân Giải phóng bỏ qua vòng ngoài thọc sâu đánh chiếm thành phố mà không có kháng cự đáng kể. Tại đây 10 vạn binh lính và sỹ quan đã ra hàng (ngày 29 tháng 3). Quân khu 1 Việt Nam Cộng hòa đã bị xoá bỏ.

Trong hai tuần đầu tháng 4 các tỉnh thành phố miền trung lần lượt rơi vào tay Quân Giải phóng. Họ từ phía Bắc tràn vào (với Quân đoàn 2) và từ Tây nguyên tràn xuống (với Quân đoàn 3 – hay Binh đoàn Tây Nguyên – được thành lập từ các đơn vị của mặt trận Tây Nguyên). Bây giờ thì không còn sức mạnh nào có thể ngăn nổi sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa.

Quân lực Việt Nam Cộng hòa dồn hết các toán quân còn sót lại của Quân đoàn 2 của họ chuyển sang cho Quân đoàn 3 chỉ huy để cố lập một phòng tuyến ngăn chặn tại Phan Rang nhưng cũng không chặn được quân Giải phóng mà tư lệnh chiến trường cũng bị bắt. Quân khu 1 và 2 của Việt Nam Cộng hòa đã bị xoá bỏ. Bây giờ quân Giải phóng đã ào xuống đồng bằng Đông Nam Bộ của quân đoàn và quân khu 3 Việt Nam Cộng hòa, chỉ còn hơn 100 km là đến Sài Gòn.

Nỗ lực cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa là trông vào tuyến phòng thủ từ xa của Sư đoàn 18 tại thị xã Xuân Lộc tỉnh Long Khánh. Quân đoàn 4 (hay Binh đoàn Cửu Long) của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam được thành lập từ các sư đoàn và đơn vị tại miền Đông Nam Bộ định chiếm Xuân Lộc trong hành tiến. Nhưng sư đoàn 18 đã chống cự có tổ chức, đây là nỗ lực chiến đấu có tổ chức dài ngày cuối cùng của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Quân đoàn 4 của quân Giải phóng không chiếm được Xuân Lộc trong hành tiến bắt buộc phải dừng lại tổ chức trận địa tiến công. Mặt khác họ không để mất thì giờ với Xuân Lộc mà đi vòng qua vòng vây tiến về phía Biên Hòa. Sau 12 ngày cầm cự, từ 9 tháng 4 đến 21 tháng 4, Sư đoàn 18 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa bỏ Xuân Lộc rút lui có tổ chức về bên kia sông Đồng Nai cố thủ. Vậy là tuyến phòng thủ từ xa cuối cùng bảo vệ Sài Gòn không còn. Trước tình hình không thể cứu vãn tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức để người khác có cơ hội đàm phán với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng ông không phải là người có thể nói chuyện được với đối phương. Các dàn xếp của các lực lượng thứ ba đã đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng thống từ ngày 28 tháng 4.

  • Chiến dịch Hồ Chí Minh: Sau khi tập hợp đủ lực lượng gồm 15 sư đoàn và rất nhiều trung đoàn, lữ đoàn độc lập khác để đảm bảo áp đảo chắc thắng, Quân Đội Nhân Dân Việt Nam bắt đầu tiến công Sài Gòn để chấm dứt chiến tranh trong một chiến dịch được gọi tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh, bắt đầu từ ngày 26 tháng 4. Quân Đội Nhân Dân Việt Nam tổ chức theo 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4 và đoàn 232 tương đương quân đoàn đánh 5 mũi từ 5 hướng vào Sài Gòn. Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã kháng cự ác liệt trên một số hướng nhưng rốt cục không thể kháng cự lâu dài được nữa. Quân Giải phóng đánh từ ngày 26 đến cuối ngày 28 tháng 4 thì họ đến được cửa ngõ Sài Gòn và có thể đi thẳng vào thành phố. Để tránh mọi rắc rối với Hoa Kỳ, Quân Đội Nhân Dân Việt Nam dừng lại bên ngoài thành phố 1 ngày để người Mỹ tổ chức di tản xong họ mới vào. 8 giờ sáng 30 tháng 4, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố Sài Gòn bỏ ngỏ và ra lệnh cho quân đội đơn phương ngừng chiến chờ đối phương vào bàn giao chính quyền. Bộ tổng tham mưu ra mệnh lệnh chấm dứt kháng cự. Quân Đội Nhân Dân Việt Nam tiến nhanh vào thành phố và chỉ gặp những kháng cự lẻ tẻ, vô tổ chức. Đến 11 giờ 30 phút Dương Văn Minh lên đài phát thanh đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến tranh Việt Nam chấm dứt.

Về việc kết thúc chiến tranh

Tập tin:Vietnamescape.jpg
Những giờ phút cuối cùng của Sài Gòn trước khi thất thủ

Việc đánh chiếm Sài Gòn kết thúc chiến tranh của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã diễn ra khá ôn hòa, rất ít đổ máu và thành phố nguyên lành. Tất nhiên việc sụp đổ đầu hàng của Việt Nam Cộng hòa là kết quả của sức mạnh quân sự áp đảo của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, nhưng việc kết thúc chiến tranh ôn hòa không đổ máu dân chúng, có đóng góp nhiều của lực lượng thứ ba và vai trò không nhỏ của Dương Văn Minh và các phụ tá. Trong bối cảnh không còn cơ hội kháng cự, với cách nhìn thực tế và không cực đoan, ông Dương Văn Minh được các lực lượng chính trị thứ ba đưa lên làm tổng thống để đảm bảo một cuộc chuyển giao chế độ êm thấm và không đổ máu, không trả thù.[182] Ông đã làm được việc này bằng cách tuyên bố Sài Gòn bỏ ngỏ và sẵn sàng đón nhận quân Giải phóng vào để làm thủ tục bàn giao chính quyền. Đối với hoàn cảnh chiến sự và chính trị lúc đó có lẽ đây là một giải pháp đúng đắn. Cùng với việc ra mệnh lệnh đơn phương ngừng chiến, thực tế từ sáng sớm 30 tháng 4, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã ngừng kháng cự và Quân Giải Phóng Miền Nam vào Sài Gòn không gặp kháng cự có tổ chức.

Ngay sau khi Quân Đội Nhân Dân Việt Nam chiếm thành phố và làm chủ hoàn toàn miền Nam, các cấp chỉ huy chính trị-quân sự của những người Cộng sản miền Nam mà đại diện là Thượng tướng Trần Văn Trà – Tư lệnh quân quản Sài Gòn đã có cách nhìn và việc làm thông cảm, hợp tình, hợp lý và những lời nói khích lệ đối với các cấp chính quyền và quân đội đối phương.[cần dẫn nguồn]

Phong trào phản chiến

Cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã bị phản đối từ đầu thập niên 1960, nhưng không được chú ý và phải cho đến khi 1 người Mỹ là Norman Morrison tự thiêu vào năm 1965 thì dư luận thế giới mới biết đến[183].

Phong trào phản chiến bước sang một bước ngoặt mới khi cuộc biểu tình của sinh viên Đại học Kent State (bang Ohio) ngày 4-5-1970 đã bị Vệ binh quốc gia Mỹ đàn áp làm 4 sinh viên bị chết và 9 người khác bị thương.

Đã có hơn 200 tổ chức chống chiến tranh ở trên khắp các bang ở Mỹ, 16 triệu trong số 27 triệu thanh niên Mỹ đến tuổi quân dịch đã chống lệnh quân dịch, 2 triệu người Mỹ “gây thiệt hại bất hợp pháp” vì chống chiến tranh Việt Nam, 75.000 người Mỹ bỏ ra nước ngoài vì không chịu nhập ngũ và đấu tranh chống chiến tranh Việt Nam, trong đó có cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton.[183]

Trong suốt cuộc chiến, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên trì tranh thủ phong trào hòa bình ở Mỹ. Theo đánh giá của William Colby thì họ được dư luận ủng hộ mạnh mẽ do việc giới thông tin đại chúng của Mỹ dễ dàng vào được miền Nam Việt Nam trong khi nếu muốn vào miền Bắc Việt Nam lại rất khó, và do đó, tin tức về những khiếm khuyết của chính phủ Việt Nam Cộng hoà thì công chúng Mỹ được biết trong khi chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì chẳng có gì hết vì họ không cho phép đưa tin.[184]

Phong trào này đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của những người cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến tranh này.[185]

Kết quả và Việt Nam sau cuộc chiến

Để xem số liệu thiệt mạng xin xem bài Tổn thất nhân mạng trong Chiến tranh Việt Nam
Nam Việt Nam (Đồng bằng sông Cửu long): Một trực thăng UH-1D của Đại đội Không quân 336 Không lực Hoa Kỳ rải chất diệt cỏ lên một vùng rừng rậm. Ngày 26/7/1969

Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến gây nhiều tàn phá nhất trong lịch sử Việt Nam và gây chia rẽ rất sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam cũng như xáo trộn, chia rẽ trong lòng nước Mỹ và nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Tùy theo nguồn, số người Việt Nam bị thiệt mạng trong chiến tranh Việt Nam là từ 3 đến 5 triệu, hàng triệu người khác tàn tật và bị thương. Những người sống sót tiếp tục phải đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng về kinh tế xã hội và môi trường mà cuộc chiến đã gây ra. Trong đó có tỷ lệ dị dạng bẩm sinh cao nhất thế giới[186]Hàng vạn nạn nhân chất độc hóa học tại Việt Nam hiện nay (Xem Chất độc da cam). Một nửa diện tích rừng của Việt Nam bị phá hủy. Sự tàn phá môi trường do Mỹ gây ra lớn đến mức đã làm phát sinh một từ tiếng Anh mới, ecocide. Việt Nam đã trở thành đất nước bị ném nhiều bom nhất trong lịch sử thế giới.Số bom ném xuống Việt Nam là 7,85 triệu tấn, gần gấp 3 tổng số tấn bom sử dụng trong Thế chiến thứ hai, trong cái gọi là chính sách "lunarization" (mặt trăng hóa).Cơ sở hạ tầng ở cả hai miền Việt Nam đã bị phá hoại gần hết. Tính bình quân mỗi người dân Việt Nam từ cụ già đến trẻ sơ sinh phải chịu đựng trên dưới 250kg bom đạn Mỹ.

Bước ra sau chiến tranh, cùng với niềm tự hào đã chiến thắng "siêu cường số một" thế giới, Việt Nam đã có được thống nhất và độc lập - mục tiêu mà vì nó nhiều thế hệ người Việt đã đấu tranh suốt từ thời Pháp thuộc.

Tuy nhiên, sau chiến tranh, Việt Nam gặp phải nhiều khó khăn. Các sai lầm của chính phủ về kinh tế và chính trị, sự cứng nhắc về hệ tư tưởng, thiên tai, lệnh cấm vận của Mỹ, và sự tàn phá của chiến tranh, tất cả đều góp phần vào các vấn đề thời hậu chiến của đất nước.[187] Những điểm yếu to lớn về kinh tế, xã hội theo mô hình xã hội chủ nghĩa (phỏng theo mô hình của Đông Âu đã không còn phù hợp) đã nhanh chóng phát tác trầm trọng (những điểm mà trong thời chiến dân chúng còn tạm chấp nhận).

Cùng với những chia rẽ sâu sắc vốn có của chiến tranh, rất nhiều sĩ quan quân đội và viên chức thuộc chế độ Việt Nam Cộng hòa bị bắt đi học tập cải tạo từ vài tháng đến vài năm (thời hạn thường tăng theo cấp bậc, sĩ quan bậc thấp thường là vài tháng, trong khi các viên chức cấp cao nhất có người bị giam giữ hơn 10 năm), càng làm cho nhân tâm thêm sa sút. Thêm vào đó, nền kinh tế Việt Nam còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc xung đột kéo dài tại biên giới với Trung Quốc và do việc đóng quân quá lâu (hơn 10 năm) ở Campuchia sau chiến tranh biên giới Tây Nam. Những sai lầm về đường lối kinh tế và lãnh đạo này đã tạo nên làn sóng khổng lồ những người bỏ nước ra đi. Sau 10 năm thống nhất đất nước nhu cầu đổi mới cho Việt Nam là tất yếu và sống còn.

Đối với Hoa Kỳ, Chiến tranh Việt Nam đã thành một chương buồn trong lịch sử của họ. Thất bại trong chiến tranh này gây một cú sốc trong tâm lý chính trị của Hoa Kỳ, buộc họ phải nhận thức và đánh giá hiệu chỉnh lại vai trò cường quốc của họ trên thế giới. Quân đội Mỹ giảm hẳn hoạt động tại nước ngoài trong suốt 15 năm, cho tới khi Chiến tranh Vùng vịnh nổ ra. Ngoài 58.220 lính chết và 153.303 thương tật, rất nhiều lính Mỹ trong số 8.744.000 lính từng tham chiến tại Việt Nam vướng vào các chứng rối loạn tâm lý, thông thường được gọi là "Hội chứng Việt Nam".[188] Sự cay đắng của các cựu binh tuổi thanh niên này góp phần tạo nên Hippi, một trào lưu đầy nổi loạn, bất cần đời trong giới trẻ Mỹ trong suốt 20 năm. Nhiều năm sau chiến tranh, hàng chục vạn quân nhân và cố vấn Mỹ đã bị ung thư do đã tiếp xúc với chất độc da cam.

Nền chính trị và mối liên kết giữa chính phủ và người dân bị chia rẽ nghiêm trọng. Hoa Kỳ đã tốn 676 tỷ đô la cho cuộc chiến (tính theo giá trị đô la của năm 2004 chưa tính các khoản chi tiêu gián tiếp khác [9]), gấp 2,7 lần chi phí của Mỹ trong chiến tranh thế giới thứ hai (250 tỷ đô la). Nếu đem so sánh giá của chiến tranh Việt Nam với các chương trình có tính chất tiêu biểu mà chính phủ nước Mỹ đã thực hiện, thì Việt Nam vẫn nổi lên một lần nữa là một trong những công cuộc đắt tiền nhất trong lịch sử nước Mỹ. Toàn bộ hệ thống đường sá giữa các bang chỉ tiêu tốn 53 tỷ USD (năm 1972), chương trình vũ trụ đưa người lên Mặt trăng của Mỹ cũng chỉ tốn 25 tỷ USD. Sự hao tổn chiến phí này, cùng khủng hoảng dầu lửa 1973 góp phần đẩy Mỹ vào một thập niên suy thoái kinh tế đầy u ám.

Vũ khí sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam

.

Chiến tranh Việt Nam trong văn hoá đại chúng

Chiến tranh Việt Nam là đề tài cho rất nhiều quyển sách, phim ảnh, games từ nhiều năm qua.

Sách

Bare Feet, Iron Will (Chân Trần Chí Thép). Tác giả: James G. Zumwalt

Phim tài liệu

+Trung lập:

  • Vietnam- The Ten Thousand-Day War ( Việt Nam - Cuộc chiến tranh 10 000 ngày) của Michael Maclear.
  • Vietnam- The Television War ( Việt Nam- Cuộc chiến truyền hình).
  • Inside the Vietnam War ( Bên trong Chiến tranh Việt Nam) của National Geographic.
  • Vietnam- The Unseen War ( Việt Nam- cuộc chiến chưa từng biết) của National Geographic
  • Battlefield Vietnam ( Chiến trường Việt Nam]].

+ Chống Mỹ

,...

Phim điện ảnh

,...

Games

  • Conflict Vietnam.
  • Battlefield Vietnam.
  • Battlefield Vietnam Bad Company.

,...

Ca nhạc

Tham khảo

  • Phim tài liệu: Vietnam - The 10,00� ngày�War (Cuộc chiến 10.000 ngày), đạo diễn: Michael Mclear.
  • Chung một bóng cờ (nhiều tác giả), Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 1995.
  • Hồi ký, hoành Linh Đỗ Mậu - Tâm sự tướng lưu vong, Hà Nội: Nxb Công an Nhân dân, 2001.
  • Hồ Khang, Tết Mậu Thân 1968: Bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hà Nội: Nxb Quân đội Nhân dân, 2005.
  • Craig A. Lockard, "Meeting Yesterday Head-on:The Vietnam War in Vietnamese, American, and World History", Journal of World History, Vol. 5, No. 2, 1994, University of Hawaii Press, pp. 227-270.

Chú thích

  1. ^ “Name of Technical Sergeant Richard B. Fitzgibbon to be added to the Vietnam Veterans Memorial”. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2013.
  2. ^ Lawrence, A.T. (2009). Crucible Vietnam: Memoir of an Infantry Lieutenant. McFarland. ISBN 978-0-7864-4517-2.
  3. ^ Olson & Roberts 2008, tr. 67.
  4. ^ “Chapter 5, Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954–1960”. The Pentagon Papers (Gravel Edition), Volume 1. Boston: Beacon Press. 1971. Section 3, pp. 314–346 – qua International Relations Department, Mount Holyoke College.
  5. ^ The Paris Agreement on Vietnam: Twenty-five Years Later (Conference Transcript). Washington, DC: The Nixon Center. tháng 4 năm 1998. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2012 – qua International Relations Department, Mount Holyoke College.
  6. ^ “Kỷ niệm 40 năm ngày Tổng tuyển cử bầu Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất (25/04/1976– 25/04/2016)”.
  7. ^ Military History Institute of Vietnam 2002, tr. 182. "By the end of 1966 the total strength of our armed forces was 690,000 soldiers."
  8. ^ Doyle, Edward; Lipsman, Samuel; Maitland, Terence (1986). The Vietnam Experience The North. Time Life Education. tr. 45–9. ISBN 978-0939526215.
  9. ^ a b Moïse, Edwin (2005). The A to Z of the Vietnam War. The Scarecrow Press. ISBN 978-1461719038.
  10. ^ “China admits 320,000 troops fought in Vietnam”. Toledo Blade. Reuters. 16 tháng 5 năm 1989.
  11. ^ Roy, Denny (1998). China's Foreign Relations. Rowman & Littlefield. tr. 27. ISBN 978-0847690138.
  12. ^ a b Womack, Brantly (2006). China and Vietnam. tr. 179. ISBN 978-0521618342.
  13. ^ a b c d e f Tucker, Spencer C (2011). The Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social, and Military History. ABC-CLIO. ISBN 978-1851099603.
  14. ^ “Area Handbook Series Laos”. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2019.
  15. ^ O'Ballance, Edgar (1982). Tracks of the bear: Soviet imprints in the seventies. Presidio. tr. 171. ISBN 9780891411338.
  16. ^ Pham Thi Thu Thuy (1 tháng 8 năm 2013). “The colorful history of North Korea-Vietnam relations”. NK News.
  17. ^ “Vietnam/Historia e 12 zbuluesve shqiptarë në luftën kundër SHBA | JavaNews.al” (bằng tiếng Anh). 11 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2022.
  18. ^ Le Gro, William (1985). Vietnam from ceasefire to capitulation (PDF). US Army Center of Military History. tr. 28. ISBN 9781410225429.
  19. ^ Pike, John. “Cambodia Civil War, 1970s”. www.globalsecurity.org.
  20. ^ “The rise of Communism”. www.footprinttravelguides.com. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2010.
  21. ^ “Hmong rebellion in Laos”.
  22. ^ a b “KOREA military army official statistics, AUG 28, 2005” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2011.
  23. ^ Tucker, Spencer, ed. Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social, and Military History. Oxford, UK: Oxford University Press, 1998. tr 64
  24. ^ a b yhchoi65 (2 tháng 7 năm 2008). “[책갈피 속의 오늘]1965년 전투병 베트남 파병 의결”. www.donga.com.
  25. ^ “Chapter VI: The Republic of Korea”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2011.
  26. ^ Ku, Su-Jeong (2 tháng 9 năm 1999). “The secret tragedy of Vietnam”. The Hankyoreh. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2007.
  27. ^ “Vietnam War Allied Troop Levels 1960–73”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  28. ^ Pike, John. “Pathet Lao Uprising”.
  29. ^ Nguồn:Tình hình quân sự năm 1967 của Võ Phòng, Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, Hồ sơ 16.105, phòng Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, hiện lưu tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II
  30. ^ “Chuyên đề 4 CÔNG TÁC TÌM KIẾM, QUY TẬP HÀI CỐT LIỆT SĨ TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO”. Datafile.chinhsachquandoi.gov.vn. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2021.
  31. ^ “Công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năn tiếp theo” [The work of searching and collecting the remains of martyrs from now to 2020 and the next]. Bộ Quốc phòng Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2018.
  32. ^ a b c d e Hirschman, Charles; Preston, Samuel; Vu, Manh Loi (tháng 12 năm 1995). “Vietnamese Casualties During the American War: A New Estimate” (PDF). Population and Development Review. 21 (4): 783. doi:10.2307/2137774. JSTOR 2137774.
  33. ^ a b c d Lewy, Guenter (1978). America in Vietnam. Oxford University Press. ISBN 978-0-19-987423-1.
  34. ^ Moyar, Mark. “Triumph Regained: Chiến tranh Việt Nam, 1965-1968.” Encounter Books, tháng 12 năm 2022. Chương 17 chỉ mục: "Những người cộng sản cung cấp thêm bằng chứng về sự gần gũi của các con số thương vong của họ với các số liệu của Mỹ trong một tiết lộ sau chiến tranh về tổng thiệt hại từ năm 1960 đến năm 1975. Trong khoảng thời gian đó, họ tuyên bố con số 849.018 người thiệt mạng cộng với khoảng 232.000 người mất tích và 463.000 người bị thương. Thương vong dao động đáng kể từ năm này sang năm khác, nhưng có thể suy ra một mức độ chính xác từ thực tế là 500.000 người chiếm 59% trong tổng số 849.018 và 59% số ngày của cuộc chiến đã trôi qua vào thời điểm nữ nhà báo người Ý Oriana Fallaci nói chuyện với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Con số tử trận được lấy từ "Chuyên đề 4: Công tác Quy tập và Quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm sau", được tải xuống từ tệp dữ liệu trang web của chính phủ Việt Nam vào ngày 1 tháng 12 năm 2017. Các số liệu trên về mất tích và bị thương được tính toán bằng cách sử dụng tỷ lệ thương vong do Hà Nội tuyên bố trong giai đoạn 1945 đến 1979, trong thời gian đó cộng sản đã gánh chịu thiệt hại với 1,1 triệu người thiệt mạng, 300.000 người mất tích và 600.000 người bị thương. Hồ Khang chủ biên, Lịch Sử Kháng Chiến Chống Mỹ, Cứu Nước 1954-1975, Tập VIII: Toàn Thắng (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, 2008), 463."
  35. ^ Joseph Babcock (29 tháng 4 năm 2019). “Lost Souls: The Search for Vietnam's 300,000 or More MIAs”. Pulitzer Centre. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2021.
  36. ^ Hastings, Max (2018). Vietnam an epic tragedy, 1945–1975. Harper Collins. ISBN 978-0-06-240567-8.
  37. ^ James F. Dunnigan; Albert A. Nofi (2000). Dirty Little Secrets of the Vietnam War: Military Information You're Not Supposed to Know. Macmillan. ISBN 978-0-312-25282-3.
  38. ^ “North Korea fought in Vietnam War”. BBC News Online. 31 tháng 3 năm 2000.
  39. ^ Clarke, Jeffrey J. (1988). United States Army in Vietnam: Advice and Support: The Final Years, 1965–1973. Center of Military History, United States Army. The Army of the Republic of Vietnam suffered 254,256 recorded combat deaths between 1960 and 1974, with the highest number of recorded deaths being in 1972, with 39,587 combat deaths
  40. ^ Rummel, R.J (1997), “Table 6.1A. Vietnam Democide : Estimates, Sources, and Calculations” (GIF), Freedom, Democracy, Peace; Power, Democide, and War, University of Hawaii System
  41. ^ “The Fall of South Vietnam” (PDF). Rand.org. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2021.
  42. ^ Vietnam Veterans Memorial Fund (4 tháng 5 năm 2021). “2021 NAME ADDITIONS AND STATUS CHANGES ON THE VIETNAM VETERANS MEMORIAL” (Thông cáo báo chí).
  43. ^ National Archives–Vietnam War U.S. Military Fatal Casualties, 15 tháng 8 năm 2016, truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2020
  44. ^ "Vietnam War U.S. Military Fatal Casualty Statistics: HOSTILE OR NON-HOSTILE DEATH INDICATOR." U.S. National Archives. 29 April 2008. Accessed 13 July 2019.
  45. ^ America's Wars (PDF) (Bản báo cáo). Department of Veterans Affairs. tháng 5 năm 2010. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2014.
  46. ^ Anne Leland; Mari–Jana "M-J" Oboroceanu (26 tháng 2 năm 2010). American War and Military Operations: Casualties: Lists and Statistics (PDF) (Bản báo cáo). Vụ Khảo cứu Quốc hội Hoa Kỳ.
  47. ^ Kueter, Dale (2007). Vietnam Sons: For Some, the War Never Ended. AuthorHouse. ISBN 978-1-4259-6931-8.
  48. ^ The Vietnam-Era Prisoner-of-War/Missing-in-Action Database, Vietnam-Era Unaccounted for Statistical Report, CURRENT AS OF: ngày 7 tháng 11 năm 2001, Library of Congress
  49. ^ “Vietnam-era unaccounted for statistical report” (PDF). 1 tháng 3 năm 2021.
  50. ^ T. Lomperis, From People's War to People's Rule (1996)
  51. ^ Tucker, Spencer, ed. Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social, and Military History. Oxford, UK: Oxford University Press, 1998. tr 64
  52. ^ “Chapter VI: The Republic of Korea”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2011.
  53. ^ “Australian casualties in the Vietnam War, 1962–72”. Australian War Memorial. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2013.
  54. ^ “Overview of the war in Vietnam”. New Zealand and the Vietnam War. 16 tháng 7 năm 1965. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2013.
  55. ^ “America Wasn't the Only Foreign Power in the Vietnam War”. 2 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2017.
  56. ^ “Vietnam Reds Said to Hold 17 From Taiwan as Spies”. The New York Times. 1964.
  57. ^ Larsen, Stanley (1975). Vietnam Studies Allied Participation in Vietnam (PDF). Department of the Army. ISBN 978-1-5176-2724-9.
  58. ^ “Asian Allies in Vietnam” (PDF). Embassy of South Vietnam. tháng 3 năm 1970. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2015.
  59. ^ Shenon, Philip (23 tháng 4 năm 1995). “20 Years After Victory, Vietnamese Communists Ponder How to Celebrate”. The New York Times. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2011. The Vietnamese government officially claimed a rough estimate of 2 million civilian deaths, but it did not divide these deaths between those of North and South Vietnam.
  60. ^ a b c Obermeyer, Ziad; Murray, Christopher J L; Gakidou, Emmanuela (23 tháng 4 năm 2008). “Fifty years of violent war deaths from Vietnam to Bosnia: analysis of data from the world health survey programme”. British Medical Journal. 336 (7659): 1482–1486. doi:10.1136/bmj.a137. PMC 2440905. PMID 18566045. From 1955 to 2002, data from the surveys indicated an estimated 5.4 million violent war deaths ... 3.8 million in Vietnam
  61. ^ “Battlefield:Vietnam – Timeline”. PBS.
  62. ^ Thayer, Thomas C. (1985). War Without Fronts: The American Experience in Vietnam. Westview Press. ISBN 978-0-8133-7132-0.
  63. ^ Heuveline, Patrick (2001). “The Demographic Analysis of Mortality Crises: The Case of Cambodia, 1970–1979”. Forced Migration and Mortality. National Academies Press. tr. 102–04, 120, 124. ISBN 978-0-309-07334-9. As best as can now be estimated, over two million Cambodians died during the 1970s because of the political events of the decade, the vast majority of them during the mere four years of the 'Khmer Rouge' regime. ... Subsequent reevaluations of the demographic data situated the death toll for the [civil war] in the order of 300,000 or less.
  64. ^ Banister, Judith; Johnson, E. Paige (1993). Genocide and Democracy in Cambodia: The Khmer Rouge, the United Nations and the International Community. Yale University Southeast Asia Studies. tr. 97. ISBN 978-0-938692-49-2. An estimated 275,000 excess deaths. We have modeled the highest mortality that we can justify for the early 1970s.
  65. ^ Sliwinski, Marek (1995). Le Génocide Khmer Rouge: Une Analyse Démographique [The Khmer Rouge genocide: A demographic analysis]. L'Harmattan. tr. 42–43, 48. ISBN 978-2-7384-3525-5.
  66. ^ a b c Lịch sử kháng chiến chống mỹ cứu nước 1954 - 1975, PGS, TS. Hồ Khang chủ biên
  67. ^ a b c d Ba mươi năm gọi tên gì cho cuộc chiến BBC Tiếng Việt 6-9-2007
  68. ^ James Stuart Olson, Historical Dictionary of the 1970s, Published 1999, Greenwood Press, tr. 350. Trích: "Without question, the Vietnam War was the most politically unpopular armed conflict in U.S. history. From the outset of the U.S. commitment in Vietnam in the 1950s, American policy makers had applied a Cold War model to the conflict, assuming that it was simply a matter of Communist aggression against non-communist South Vietnamese." (...các nhà hoạch định chính sách Mỹ đã áp dụng một mô hình Chiến tranh Lạnh cho cuộc xung đột, cho rằng đây đơn giản chỉ là một vấn đề về sự gây hấn của Cộng sản chống lại những người Nam Việt Nam không cộng sản)
  69. ^ Ngô Đình Diệm: Biên giới của thế giới tự do chạy dài từ Alaska đến sông Bến Hải. Theo Hồi ký Đỗ Mậu.
  70. ^ Khẩu hiệu của lãnh đạo phía Việt Nam Cộng hòa: "Chống Cộng sản, bảo vệ miền Nam khỏi sự xâm lăng của miền Bắc"
  71. ^ CALCULATING THE COST OF CONFLICT War on Terror More Expensive Than Vietnam. Theo Phòng nghiên cứu của Hạ viện Mỹ (US government's Congressional Research Service), trong 10 năm 1965-1975, chi phí cho Chiến tranh Việt Nam mà Mỹ đã phải chịu tương đương với $662 tỉ đô la theo thời giá năm 2007.
  72. ^ Quân lực Việt Nam Cộng hòa là một quân đội hiện đại, tốn kém, đòi hỏi kinh phí hoạt động gần 3 tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Nền kinh kế Việt Nam Cộng hòa không thể cáng đáng được kinh phí này, nên Việt Nam Cộng hòa đã gần như phải dựa hoàn toàn vào viện trợ kinh tế của Mỹ để có thể thực hiện phòng thủ quốc gia. Khi Mỹ giảm viện trợ xuống còn 1,1 tỷ đô la vào năm 1974, nền kinh tế lâm vào cuộc khủng hoảng với lạm phát ở mức 200%, Quân lực Việt Nam Cộng hòa không còn đủ kinh phí hoạt động, tình trạng thiếu đạn dược, vũ khí, xăng dầu đã dẫn đến hỏa lực yếu và giảm tính cơ động
    Nguồn: Andrew A. Wiest, The Vietnam War, 1956-1975, 2002, Osprey Publishing, tr. 80)
    Trong khi đó, tổng thu nội địa của Việt Nam Cộng hòa năm 1974 (năm cao nhất trong lịch sử Việt Nam Cộng hòa) là khoảng 300 tỉ đồng, (với tỉ giá năm 1974 là 685 đồng/1 đô la). Nghĩa là năm đó tổng thu của Việt Nam Cộng hòa tương đương với gần 1/2 tỷ đô, bằng 1/2 viện trợ kinh tế của Mỹ năm đó, gần bằng 1/6 kinh phí cần thiết cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Xem thêm bài Kinh tế Việt Nam Cộng hòa để có chi tiết về viện trợ của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa trong 20 năm 1955-1975 cùng các nguồn dẫn chứng tương ứng.
  73. ^ Neil Sheehan, A Bright Shining Lie, Random House, 1988, tr. 717. Đến năm 1969, chi phí của Mỹ dành cho cuộc chiến đã lên tới 33 tỷ đô la mỗi năm, khơi mào cho một cuộc lạm phát bắt đầu làm suy yếu nền kinh tế Mỹ.
  74. ^ Năm 1964, sự can thiệp của quân chính quy Mỹ vào Việt Nam là cách duy nhất để ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn và việc lực lượng Cộng sản thống nhất Việt Nam. Sheehan. tr. 382.
  75. ^ During the earlier years, with General William C. Westmoreland in command, the American approach was basically to take over the war from the South Vietnamese and try to win it militarily by conducting a war of attrition.
    ..về cơ bản, cách tiếp cận của người Mỹ là tiếp quản cuộc chiến từ những người Nam Việt Nam và cố gắng thắng nó bằng quân sự với việc thực hiện một cuộc chiến tranh hủy diệt
    Lewis Sorley, South Vietnam: Worthy Ally
  76. ^ Westmoreland's basic assumption was that U.S. forces, with their enormous and superior firepower, could best be employed in fighting the enemy's strongest units in the jungles and mountains, away from heavily populated areas. Behind this "shield" provided by the Americans, the South Vietnamese army and security forces could take on local Viet Cong elements and proceed with the job of reasserting government control in the countryside.
    quân Mỹ được dùng để đánh với những đơn vị mạnh nhất của địch ở những nơi rừng núi. Đằng sau "tấm khiên" mà người Mỹ cung cấp, quân đội Nam Việt Nam có thể thi thố với các phần tử Việt Cộng địa phương và tiếp tục công việc tái khẳng định quyền kiểm soát của chính phủ ở nông thôn
    Từ điển Britannica, Firepower comes to naught
    ...to enable them [ARVN] gradually to take over sole responsibility for fighting the ground war—a program labeled Vietnamization.
    Việt Nam hóa chiến tranh là chương trình để Quân lực Việt Nam Cộng hòa dần dần lãnh trách nhiệm chiến đấu trên bộ... (nghĩa là lúc đó chưa chịu trách nhiệm)
    Từ điển Britannica,De-escalation, negotiation, and Vietnamization
  77. ^ Số quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam khi lên đỉnh vào tháng 4 năm 1969 đạt 543.000 quân, trong khi đến năm 1972 quân Giải phóng ở miền Nam mới đạt khoảng 200-300.000 người. Sheehan. tr. 724, Thống kê lịch sử Mỹ 1942-1996.
    Westmoreland và các tướng của ông chỉ muốn dùng binh lính Mỹ và số ít lực lượng thiện chiến nhất của Việt Nam Cộng hòa. Thậm chí đến người lái xe chở quân Mỹ cũng cần phải là người Mỹ. Thay vì cải tổ lại Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Địa phương quân và Dân vệ để cho người Việt thực hiện một cuộc chiến của người Việt tại các vùng nông thôn, Westmoreland lại chủ ý đấy quân đội Sài Gòn ra một bên để ông có thể dùng quân đội Mỹ giành chiến thắng trong cuộc chiến. Chủ ý của Westmoreland là quét sạch Việt Cộng và quân đội miền Bắc thâm nhập vào miền Nam rồi mới dần dần trao quyền cho chính phủ Sài Gòn. Neil Sheehan. tr. 556-7. Kế hoạch này của Westmoreland đã được chính quyền của Tổng thống Johnson chấp thuận và thực thi. U.S. Department of Defense, U.S.-Vietnam Relations vol. 5, tr. 8-9; McNamara Argument Without End tr. 353
  78. ^ Đại Tướng Văn Tiến Dũng: "Một năm đã qua kể từ ngày cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 giành toàn thắng, đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam." - Đại Thắng Mùa Xuân, trang 1
  79. ^ Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước, báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập ngày 6-8-2007
  80. ^ Kết thúc hội thảo về đại thắng mùa xuân 1975, báo VietNamNet, truy cập ngày 6-8-2007
  81. ^ Tên gọi thông dụng nhất tại Việt Nam cho cuộc chiến là "Kháng chiến chống Mỹ".
  82. ^ a b Mitchell K.Hall, The Vietnam War, Pearson Education, 2007, tr. 3. Trích:
    American viewed the struggle in Vietnam as part of a new global conflict against communism, while the Vietnamese saw the war against the United States as the latest phase of a long fight for independence
    Người Mỹ coi cuộc chiến tại Việt Nam là một phần của một cuộc xung đột toàn cầu mới chống lại chủ nghĩa cộng sản, trong khi người Việt Nam xem cuộc chiến chống Mỹ là giai đoạn mới nhất của một cuộc đấu tranh trường kỳ giành độc lập.
  83. ^ James Stuart Olson, Historical Dictionary of the 1970s, Published 1999, Greenwood Press, tr. 350. Trích:
    "most Vietnamese simply saw the Americans as the latest alien presense in their nation." (đa số người Việt coi người Mỹ đơn giản là sự hiện diện mới nhất của ngoại bang trên đất nước của họ.)
  84. ^ James Stuart Olson, Historical Dictionary of the 1970s, Published 1999, Greenwood Press, tr. 350. Trích:
    "The moving force behind the Vietnam War, however, was a fierce nationalism let by Ho Chi Minh, the man who had defeated the French at the Battle of Dienbienphu in 1954 and destroyed the French empire in Indochina. The Vietnamese had spent more than 2,000 years battling foreign interlopers in their country - including the Chinese, the Japanese, and the French - and most Vietnamese simply saw the Americans as the latest alien presense in their nation." (Tuy nhiên, lực lượng hoạt động đằng sau Chiến tranh Việt Nam lại là một phong trào dân tộc mãnh liệt do Hồ Chí Minh lãnh đạo, phong trào đã đánh bại Pháp trong trận Điện Biên Phủ năm 1954 và phá tan đế quốc Pháp ở Đông Dương. Người Việt đã chiến đấu 2000 năm chống ngoại xâm - trong đó có Trung Quốc, Nhật, và Pháp - và đa số người Việt coi người Mỹ đơn giản là sự hiện diện mới nhất của ngoại bang trên đất nước của họ.)
  85. ^ a b Michael Bibby, The Vietnam War and Postmodernity, Univ of Massachusetts Press, 2000, tr. 202. Trích:
    "...Vietnam was a guerilla war carried out as a part of national liberation movement that had the support of the majority of its citizens...Because of the intense nationalism generated by such struggles, it is difficult to defeat these movements..."
    (...Việt Nam là một cuộc chiến tranh du kích được thực hiện trong một phong trào giải phóng dân tộc với sự hỗ trợ của đa số các công dân Việt Nam...Do chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ tạo bởi các cuộc đấu tranh như vậy, khó có thể đánh bại được các phong trào này...)
  86. ^ History Study Guides, The Vietnam War, Barnes & Noble [1]
    "The United States lost the war in Vietnam in large part due to the Viet Cong’s tenacity and its widespread popularity with the South Vietnamese."
    (Mỹ đã thất bại trong cuộc chiến tại Việt Nam phần lớn là do quyết tâm của Việt Cộng và sự ủng hộ rộng rãi của người dân Nam Việt Nam đối với họ).
  87. ^ Mark Bradley, Jayne Susan Werner, Luu Doan Huynh, The Vietnam War: Vietnamese and American Perspectives, M.E. Sharpe, 1993, tr. 237
  88. ^ G. Louis Heath, Mutiny Does Not Happen Lightly: The Literature of the American Resistance to the Vietnam War (Metuchen, NJ: Scarecrow Press, 1976). tr. 138.
  89. ^ David Horowitz, Containment and Revolution, Beacon Press, 1967, tr. 237[2]
  90. ^ Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Nguyễn Cao Kỳ... đã từng phục vụ trong Quân đội Quốc gia Việt Nam
  91. ^ James Stuart Olson, Historical Dictionary of the 1970s, Published 1999, Greenwood Press, tr. 350. Trích:
    "The moving force behind the Vietnam War, however, was a fierce nationalism let by Ho Chi Minh." (Tuy nhiên, lực lượng hoạt động đằng sau Chiến tranh Việt Nam lại là một phong trào dân tộc mãnh liệt do Hồ Chí Minh lãnh đạo)
  92. ^ Frances FitzGerald, Fire in the Lake - The Vietnamese and the Americans in Vietnam, Vintage Books, 1972, tr.549. Trích:
    "Their victory [NLF] would be...the victory of the Vietnamese people - northerners and southerners alike. Far from being a civil war, the struggle of NLF was an assertion of the principle of national unity that the Saigon government has endorsed and betrayed" (Chiến thắng của họ [Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam]... là chiến thắng của dân tộc Việt Nam - người Bắc cũng như người Nam. Khác xa với một cuộc nội chiến, cuộc đấu tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là một sự khẳng định nguyên tắc thống nhất dân tộc mà chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố ủng hộ và phản bội)
  93. ^ -Nigel Cawthorne, Chiến tranh Việt Nam-Được và Mất, NXB Đà Nẵng, tr. 319
  94. ^ Theo tiến sĩ Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong buổi phỏng vấn với CNN và trong quyển sách Những Bí mật về Chiến tranh Việt Nam mà ông đã viết
  95. ^ Chi tiết bài phỏng vấn trên Youtube
  96. ^ "These states of capitalist countries were a thread not so much because they called themselves "socialist", but because they were competing capitalist powers and their market were largely closed to American business." - Sử gia Jonathan Neale
  97. ^ Cold War, Bách khoa toàn thư Encarta, truy cập ngày 6-8-2007
  98. ^ Trang chủ VietnamWar.com 6-9-2007
  99. ^ Introduction To the Vietnam War 6-9-2007 The Vietnam War was a war fought between 1964 and 1975 on the ground in South Vietnam and bordering areas of Cambodia and Laos, and in bombing runs over North Vietnam.
  100. ^ A.J. Langguth. 2000. Our Vietnam: the War 1954-1975
  101. ^ Phillip Davidson. 1988. Vietnam at War: The History 1946-1975
  102. ^ Introduction To the Vietnam War 6-9-2007 The Vietnam War was a war fought between 1964 and 1975 on the ground in South Vietnam and bordering areas of Cambodia and Laos, and in bombing runs over North Vietnam.
  103. ^ The American War: Vietnam 1960-1975. London: Bookmarks Publications Limited, ISBN 1-898876-67-3
  104. ^ A Vietnam War Timeline 6-9-2007
  105. ^ [3] Section 9. 1960-1975 "The Vietnam War" CI History Area 6-9-2007
  106. ^ [4] The Second Indochina War, 1954-1975 6-9-2007
  107. ^ [5] Our Vietnam: The War 1954-1975 by A.J.Langguth
  108. ^ Nguồn từ Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh- 28 Võ Văn Tần Q.3 TpHCM
  109. ^ http://www.vnn.vn/dulieu/2005/04/409835/
  110. ^ The Pentagon Papers, Chapter 2, "U.S. Involvement in the Franco-Viet Minh War, 1950-1954", MEMORANDUM FOR THE PRESIDENT - Harry S. Truman President, trích "Recognition by the United States of the three legally constituted governments of Vietnam, Laos' and Cambodia appears desirable and in accordance with United States foreign policy for several reasons. Among them are: encouragement to national aspirations under non-Communist leadership for peoples of colonial areas in Southeast Asia; the establishment of stable non-Communist governments in areas adjacent to Communist China; support to a friendly country which is also a signatory to the North Atlantic Treaty; and as a demonstration of displeasure with Communist tactics which are obviously aimed at eventual domination of Asia, working under the guise of indigenous nationalism."
  111. ^ The Pentagon Papers, Chapter 2, "U.S. Involvement in the Franco-Viet Minh War, 1950-1954", Trích "The U.S.-French ties in Europe (NATO, Marshall Plan, Mutual Defense Assistance Program) only marginally strengthened U.S. urgings that France make concessions to Vietnamese nationalism. Any leverage from these sources was severely limited by the broader considerations of U.S. policy for the containment of communism in Europe and Asia. NATO and the Marshall Plan were of themselves judged to be essential to our European interests. To threaten France with economic and military sanctions in Europe in order to have it alter its policy in Indochina was, therefore, not plausible. Similarly, to reduce the level of military assistance to the French effort in Indochina would have been counter-productive, since it would have led to a further deterioration in the French military position there. In other words, there was a basic incompatibility in the two strands of U.S. policy: (1) Washington wanted France to fight the anti-communist war and win, preferably with U.S. guidance and advice; and (2) Washington expected the French, when battlefield victory was assured, to magnanimously withdraw from Indochina."
  112. ^ The Pentagon Papers, Chapter 2, "U.S. Involvement in the Franco-Viet Minh War, 1950-1954"
  113. ^ Xem tại Hiệp ước Elysée 1949
  114. ^ Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, tr.35
  115. ^ Dommen, Athur J. The Indochinese Exprience of the French and the Americans, Nationalism and Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam. Bloomington, IN: Indiana University Press. Trang 196.
  116. ^ "Các lực lượng trong nước trong chiến tranh 1960-1975"
  117. ^ Harry G. Summers, Jr., Historical Atlas of the Vietnam War. New York: Houghton Mifflin, 1995. ISBN 0-395-72223-3
  118. ^ Hiệp định Genève (bản tiếng Anh)
  119. ^ 17 tháng 6 năm 1954 discourse of Mendès-France trên website của Quốc hội Pháp truy cập ngày 6-9-2007
  120. ^ Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 (bản tiếng Anh)
  121. ^ Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất - Francois Joyaux, Nxb Thông tin lý luận,1981.
  122. ^ Tuyên bố của Mỹ tại Hội nghị Genève 1954 (bản tiếng Anh) http://vietnam.vassar.edu/overview/doc3.html
  123. ^ a b c d The Pentagon Papers - Volume 1, Chapter 5, "Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954-1960"
  124. ^ Denis Warner, Certain victory - How Hanoi won the war, Sheed Andrews and McMeel, Inc, 1978, tr. 110 (phỏng vấn của tác giả với Ngô Đình Diệm)
  125. ^ a b c The Reunification of Vietnam, PRESIDENT NGO DINH DIEM'S BROADCAST DECLARATION ON THE GENEVA AGREEMENTS AND FREE ELECTIONS (July 16, 1955), page 24, Vietnam bulletin - a weekly publication of the Embassy of Vietnam in United States, Special issue No.16, Available online Trích: "Our policy is a policy for peace. But nothing will lead us astray of our goal, the unity of our country, a unity in freedom and not in slavery. Serving the cause of our nation, more than ever we will struggle for the reunification of our homeland. We do not reject the principle of free elections as peaceful and democratic means to achieve that unity. However, if elections constitute one of the bases of true democracy, they will be meaningful only on the condition that they be absolutely free. Now, faced with a regime of oppression as practiced by the Viet Minh, we remain skeptical concerning the possibility of fulfilling the conditions of free elections in the North." dịch là "Chính sách của chúng tôi là chính sách hoà bình. Nhưng không có gì có thể khiến chúng tôi đi chệch khỏi mục tiêu của chúng tôi là sự thống nhất đất nước, thống nhất trong tự do chứ không phải trong nô lệ. Vì dân tộc, chúng tôi sẽ đấu tranh hết sức mình cho sự thống nhất đất nước. Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ. Tuy nhiên nếu những cuộc bầu cử tạo thành một trong những nền tảng cơ bản của nền dân chủ thật sự thì chúng chỉ có ý nghĩa với điều kiện chúng hoàn toàn tự do. Hiện nay, thực tế phải đối mặt với chế độ áp bức của Việt Minh, chúng tôi nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc."
  126. ^ Sắc lệnh số 8 ngày 5/9/1945, số 30 ngày 12/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ
  127. ^ Sắc lệnh số 33A ngày 13/9/1945
  128. ^ Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945,số 37 ngày 26/9/1945,số 40 ngày 29/9/1945,số 77C ngày 28/12/1945
  129. ^ Nguồn: Dwight D. Eisenhower, Mandate for Change, 1953-56 (Garden City, NY: Doubleday & Compnay, Inc., 1963), tr. 372 [6]
  130. ^ Daniel Ellsberg trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers, Viking, 2002, p.255: Không làm gì có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ có một cuộc xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ. Dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp-Mỹ, sau đến toàn là Mỹ. Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh – chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ.
  131. ^ Nguồn: Dwight D. Eisenhower, Mandate for Change, 1953-56 (Garden City, NY: Doubleday & Compnay, Inc., 1963), tr. 372 [7]
  132. ^ Bernard B. Fall, The Two Vietnams (New York: Praeger, 1964) pp. 153-4
  133. ^ Trích tại The CIA: A Forgotten History; All other actions: The Pentagon Papers, Document No. 15: 'Lansdale Team's Report on Covert Saigon Mission in '54 and '55,' pp. 53-66.
  134. ^ Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 31 tháng 12 năm 1959 kéo dài nhiệm kỳ của các đại biểu miền Nam trong quốc hội, website Bộ Tư pháp, truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2007
  135. ^ Vietnam News Agency, 7 tháng 2 năm 1955
  136. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1954 đến cuối năm 1959), Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nxb Quân đội Nhân dân, 1998
  137. ^ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng Lao Động Việt Nam, phần Niên biểu toàn khoá, website Đảng cộng sản Việt Nam, truy cập ngày 6-9-2007
  138. ^ Văn kiện Hội nghị Trung ương Đảng Lao động lần thứ 15. Cục lưu trữ
  139. ^ Kinh tế miền Nam VN trước và sau 1975, phỏng vấn chuyên gia Lịch sử kinh tế - giáo sư Đặng Phong, BBC 02/04/2005
  140. ^ Robert K. Brigham, Battlefield Vietnam: A Brief History, 6-9-2007
  141. ^ Vietnam: Why Did We Go?" by Avro Manhattan, Chick Publication, California 1984, pp. 56 & 89
  142. ^ PENTAGON PAPERS GRAVEL,Tr 335-337
  143. ^ Chém vè giữa làng báo Sài Gòn - Tuyển tập Nguyên Hùng, Nguyên Hùng, Nxb Công an nhân dân, 2005
  144. ^ a b Tuyển tập Lê Duẩn, tập 1 (1950 - 1975), Đề cương cách mạng miền Nam, Lê Duẩn, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 75 - 122
  145. ^ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng Lao Động Việt Nam, phần Niên biểu toàn khoá URL đã dẫn ở phía trên
  146. ^ Live interview by John Bartlow Martin. Was Kennedy Planning to Pull out of Vietnam? New York, NY. John F. Kennedy Library, 1964, Tape V, Reel 1
  147. ^ Howard Jones, Death of a Generation: How the assassinations of Diem and JFK prolonged the Vietnam War, Nhà Xuất Bản Ðại Học Oxford, London, 2003
  148. ^ Ford, Harold P., Calling the Sino-Soviet Split, Studies in Intelligence, Winter 1998-99
  149. ^ Edward Teller (1908 - 2003) cha đẻ bom nguyên tửVietsciences truy cập ngày 6-9-2007
  150. ^ a b Những nguồn chi viện lớn cho cách mạng Việt Nam, VietNamNet truy cập ngày 6-9-2007
  151. ^ Ford, Harold P., "Calling the Sino-Soviet Split", Studies in Intelligence, Winter 1998-99.
  152. ^ Chang Jung và Jon Halliday. Mao: The Unknown Story. New York: Alfred A. Knopf, 2005.
  153. ^ a b Jian Chen. Mao’s China & the Cold War. Chapel Hill, NC: The University of North Carolina Press, 2001
  154. ^ Gibbons, William Conrad: The U.S. Government and the Vietnam War; Executive and Legislative Roles and Relationships
  155. ^ Tập tài liệu Lầu Năm Góc, Airforce Magazine http://www.airforce-magazine.com/MagazineArchive/Pages/2007/February%202007/0207pentagon.aspx
  156. ^ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng Lao Động Việt Nam, phần Niên biểu toàn khoá Website Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập ngày 6-8-2007
  157. ^ Từ điển bách khoa Việt Nam 2005, QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM
  158. ^ Trung đoàn Bình Giã, Tuoitre.com.vn 6-9-2007
  159. ^ McNamara, In Retrospect, Random House, 1995. tr. 203, 204.
    Trong 3 phương án mà McNamara đề xuất: (1) rút quân, (2) giữ nguyên mức độ can thiệp rồi cuối cùng cũng sẽ phải rút quân, và (3) mở rộng can thiệp quân sự theo đề xuất của Westmoreland, Tổng thống Johnson đã chọn phương án 3
  160. ^ Giô-dép A Am-tơ, Lời Phán quyết về VN, NXB Quân đội Nhân dân, 1985, tr. 81
  161. ^ Michael Macclear, The Ten Thousand Day War: Vietnam, 1945-1975 (New York: St.Martin's, 1981), pp.130-133
    Dẫn lại tại Lockard, 237
  162. ^ Ellsberg, Daniel, Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers, New York: Viking, 2002
  163. ^ Viên phi công Mỹ bị bắn rơi đầu tiên ở miền Bắc, VietNamNet
  164. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Qiang Zhai
  165. ^ Hồ Chí Minh toàn tập (tập 10), trang 46, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2000. Trích : Việt Nam ta - Dưới chế độ đen tối của Mỹ - Diệm, tình hình miền Nam tiêu điều như thế nào, bà con ta đã rõ. ở đây tôi chỉ nhắc lại một con số do báo chí Sài Gòn nêu ra: "Sài Gòn có l.219.000 người, trong đó 810.000 người không có lương cố định", nghĩa là thường xuyên không có công ăn việc làm, phải sống vất vơ vất vưởng.
  166. ^ Hồ Chí Minh toàn tập (tập 11), trang 113,116,124,144,145,174,182,199,221,290,291,294,295 ... , Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2000. Trích dẫn từ cuộc phỏng vấn của nhà báo William Bớc sét-Phóng viên Tuần Báo Mỹ "Người bảo vệ Dân tộc"
  167. ^ Phóng sự phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh, đài ORTF ngày 5-6-1964
  168. ^ “30”. The Americans (bằng tiếng Anh). and many other. McDougal Littell. tr. 945. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)Quản lý CS1: khác (liên kết)
  169. ^ Modern History Sourcebook: President Lyndon Johnson and Ho Chi Minh - Letter Exchange, 1967
  170. ^ Viện sử học, Việt Nam những sự kiện lịch sử 1945-1975, NXB Giáo dục, 2006, trang 317.
  171. ^ a b c d e Vũ Dương Ninh (chủ biên), Sách giáo khoa Lịch Sử Việt Nam 12, Chương "Tình hình cách mạng Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1968-1972", NXB Giáo Dục 2005
  172. ^ Nguồn: http://vietnamnet.vn/psks/2007/10/748985/
  173. ^ a b c d Arnold, James R. The Tet Offensive 1968. New York: Praeger Publishers, 1990. ISBN 0-275-98452-4.
  174. ^ Wilbanks, James H. The Tet Offensive: A Concise History. New York: Columbia University Press, 2006
  175. ^ a b c d Oberdorfer, Don, Tet!: The Turning Point in the Vietnam War. Baltimore: The Johns Hopkins University Press, 1971. ISBN 0-8018-6703-7
  176. ^ a b Vietnam: Policy and Prospects, 1970 - HEARINGS BEFORE THE COMMITTEE ON FOREIGN RELATIONS UNITED STATES SENATE NINETY-FIRST CONGRESS SECOND SESSION ON CIVIL OPERATIONS AND RURAL DEVELOPMENT SUPPORT PROGRAM (pages 5-6)
  177. ^ Andrew A. Wiest, The Vietnam War, 1956-1975, 2002, Osprey Publishing, tr.80
  178. ^ Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam-Chương 10:Giữa sự hòa hoãn và Việt Nam-Ilya V. Gaiduk
  179. ^ Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam-Chương 10:Giữa sự hòa hoãn và Việt Nam-Ilya V. Gaiduk
  180. ^ George Herring, America's Longest War - the United States and Vietnam 1950-1975, tr. 244
  181. ^ Sau Hiệp định Paris, Liên Xô và Trung Quốc giảm viện trợ về vũ khí tấn công hạng nặng và không khuyến khích Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đánh lớn. Nguồn: Báo Quân đội Nhân dân, Những nguồn chi viện lớn cho cách mạng Việt Nam.
  182. ^ Hồ sơ về Tướng Dương Văn Minh đăng trên trang web của Hội Nhà Văn Việt Nam[8]
  183. ^ a b Báo Sài Gòn giải phóng, Nhìn lại “cuộc chiến trong lòng nước Mỹ”, 15/4/2005
  184. ^ William Colby-Một chiến thắng bị bỏ lỡ NXB CAND p390
  185. ^ trong đó có các tầng lớp nhân dân Mỹ, đã làm nên một cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ, đã cổ vũ, động viên và góp phần quan trọng vào thắng lợi huy hoàng của toàn dân ta làm nên Đại thắng mùa xuân 1975 lịch sử
    Nguồn: Nguyễn Đức Thắng, CÓ MỘT CUỘC CHIẾN TRONG LÒNG NƯỚC MỸ, Tạp chí Cộng sản, tháng 4/2008
  186. ^ Nick Malloni, "Agent of Destruction," Far Easten Economic Review, 7 tháng 12 năm 1989, pp. 38-39; Peter Korn, "The Persisting Poison," The Nation, 8 tháng 4 năm 1991, pp.440-45
    Dẫn lại tại Lockard, 239
  187. ^ Lockard, 240
  188. ^ American War and Military Operations Casualties: Lists and Statistics, Congressional Research Service, February 26, 2010 Available online

Đọc thêm

Tiếng Việt

Tiếng Anh

  • Carter, Jimmy. By The President Of The United States Of America, A Proclamation Granting Pardon For Violations Of The Selective Service Act, 4 tháng 8 năm 1964 To 28 tháng 3 năm 1973 (21 tháng 1 năm 1977) [10]
  • Central Intelligence Agency. "Laos," CIA World Factbook [11]
  • Eisenhower, Dwight D. Mandate for Change. (1963) a presidential political memoir
  • Ho, Chi Minh. "Vietnam Declaration of Independence," Selected Works. (1960-1962) selected writings
  • Inaugural Address of John F. Kennedy. (1961)
  • International Agreement on the Neutrality of Laos. (1962)
  • LeMay, General Curtis E. and Kantor, MacKinley. Mission with LeMay (1965) autobiography of controversial former Chief of Staff of the United States Air Force
  • Kissinger, United States Secretary of State Henry A. "Lessons on Vietnam," (1975) secret memoranda to U.S. President Ford [12]
  • McMahon, Robert J. Major Problems in the History of the Vietnam War: Documents and Essays (1995) textbook
  • Kim A. O'Connell, ed. Primary Source Accounts of the Vietnam War (2006)
  • McCain, John. Faith of My Fathers: A Family Memoir (1999) the Senator was a POW
  • Marshall, Kathryn. In the Combat Zone: An Oral History of American Women in Vietnam, 1966–1975 (1987)
  • Martin, John Bartlow. Was Kennedy Planning to Pull out of Vietnam? (1964) oral history for the John F. Kennedy Library, tape V, reel 1.
  • Myers, Thomas. Walking Point: American Narratives of Vietnam (1988)
  • Major General Spurgeon Neel. Medical Support of the U.S. Army in Vietnam 1965–1970 (Department of the Army 1991) official medical history; online complete text
  • Roosevelt, Franklin D. "Franklin Roosevelt Memorandum to Cordell Hull." (1995) in Major Problems in American Foreign Policy
  • Public Papers of the Presidents, 1965 (1966) official documents of U.S. presidents.
  • Schlesinger, Arthur M. Jr.Robert Kennedy and His Times. (1978) a first hand account of the Kennedy administration by one of his principle advisors
  • Sinhanouk, Prince Norodom. "Cambodia Neutral: The Dictates of Necessity." Foreign Affairs. (1958) describes the geopolitical situation of Cambodia
  • Sun Tzu. The Art of War. (1963), ancient military treatise
  • Tang, Truong Nhu. A Vietcong Memoir (1985), revealing account by senior NLF official
  • Terry, Wallace, ed. Bloods: An Oral History of the Vietnam War by Black Veterans (1984)
  • The Pentagon Papers (Gravel ed. 5 vol 1971); combination of narrative and secret documents compiled by Pentagon. excerpts
  • U.S. Department of State. Foreign Relations of the United States (multivolume collection of official secret documents) vol 1: 1964; vol 2: 1965; vol 3: 1965; vol 4: 1966;
  • U.S. Department of Defense and the House Committee on Armed Services.U.S.-Vietnam Relations, 1945–1967. Washington, DC. Department of Defense and the House Committee on Armed Services, 1971, 12 volumes.
  • Vann, John Paul Quotes from Answers.com Lt. Colonel, U.S. Army, DFC, DSC, advisor to the ARVN 7th Division, early critic of the conduct of the war.
  • Anderson, David L. Columbia Guide to the Vietnam War (2004).
  • Baker, Kevin. "Stabbed in the Back! The past and future of a right-wing myth," Harper's Magazine (June, 2006) [13]
  • Angio, Joe. Nixon a Presidency Revealed (2007) The History Channel television documentary
  • Berman, Larry. Lyndon Johnson's War: The Road to Stalemate (1991).
  • Blaufarb, Douglas. The Counterinsurgency Era (1977) a history of the Kennedy Administration's involvement in South Vietnam.
  • Brigham, Robert K. Battlefield Vietnam: A Brief History a PBS interactive website
  • Buzzanco, Bob. "25 Years After End of Vietnam War: Myths Keep Us From Coming To Terms With Vietnam," The Baltimore Sun (17 tháng 4 năm 2000) [14]
  • Church, Peter ed. A Short History of South-East Asia (2006).
  • Cooper, Chester L. The Lost Crusade: America in Vietnam (1970) a Washington insider's memoir of events.
  • Demma, Vincent H. "The U.S. Army in Vietnam." American Military History (1989) the official history of the United States Army. Available online
  • Duiker, William J. The Communist Road to Power in Vietnam (1996).
  • Duncanson, Dennis J. Government and Revolution in Vietnam (1968).
  • Fincher, Ernest Barksdale, The Vietnam War (1980).
  • Ford, Harold P. CIA and the Vietnam Policymakers: Three Episodes, 1962–1968. (1998).
  • Gerdes, Louise I. ed. Examining Issues Through Political Cartoons: The Vietnam War (2005).
  • Hammond, William. Public Affairs: The Military and the Media, 1962–1968 (1987); Public Affairs: The Military and the Media, 1068–1973 (1995). full-scale history of the war by U.S. Army; much broader than title suggests.
  • Herring, George C. America's Longest War: The United States and Vietnam, 1950–1975 (4th ed 2001), most widely used short history.
  • Hitchens, Christopher. The Vietnam Syndrome.
  • Karnow, Stanley. Vietnam: A History (1983), popular history by a former foreign correspondent; strong on Saigon's plans.
  • Kutler, Stanley ed. Encyclopedia of the Vietnam War (1996).
  • Lewy, Guenter. America in Vietnam (1978), defends U.S. actions.
  • McMahon, Robert J. Major Problems in the History of the Vietnam War: Documents and Essays (1995) textbook.
  • McNamara, Robert, James Blight, Robert Brigham, Thomas Biersteker, Herbert Schandler, Argument Without End: In Search of Answers to the Vietnam Tragedy, (Public Affairs, 1999).
  • Moise, Edwin E. Historical Dictionary of the Vietnam War (2002).
  • Moss, George D. Vietnam (4th ed 2002) textbook.
  • Moyar, Mark. Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954–1965, (Cambridge University Press; 412 pages; 2006). A revisionist history that challenges the notion that U.S. involvement in Vietnam was misguided; defends the validity of the domino theory and disputes the notion that Ho Chi Minh was, at heart, a nationalist who would eventually turn against his Communist Chinese allies.
  • Palmer, Bruce, Jr. The Twenty-Five Year War (1984), narrative military history by a senior U.S. general.
  • Schell, Jonathan. The Time of Illusion (1976).
  • Schulzinger, Robert D. A Time for War: The United States and Vietnam, 1941–1975 (1997).
  • Spector, Ronald. After Tet: The Bloodiest Year in Vietnam (1992), very broad coverage of 1968.
  • Tucker, Spencer. ed. Encyclopedia of the Vietnam War (1998) 3 vol. reference set; also one-volume abridgement (2001).
  • Witz, James J. The Tet Offensive: Intelligence Failure in War (1991).
  • Young, Marilyn, B. The Vietnam Wars: 1945–1990. (1991).
  • Xiaoming, Zhang. "China's 1979 War With Vietnam: A Reassessment," China Quarterly. Issue no. 184, (December, 2005) [15]
  • Vietnam bulletin - a weekly publication of the Embassy of Vietnam in United States. The Reunification of Vietnam, Special issue No.16, Available online

Xem thêm

Liên kết ngoài

Bản mẫu:Link FA Bản mẫu:Link FA Bản mẫu:Link GA Bản mẫu:Link GA
Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “A”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="A"/> tương ứng, hoặc thẻ đóng </ref> bị thiếu