Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triều Tiên Thế Tông”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
(Một sửa đổi ở giữa của cùng người dùng)
Dòng 74: Dòng 74:
==Khoa học & công nghệ==
==Khoa học & công nghệ==
[[Image:Korean Waterclock.jpg|thumb|left|200px|A modern reconstruction and scaled down model of Jang Yeong-sil's [[Striking clock|self-striking water clock]].]]
[[Image:Korean Waterclock.jpg|thumb|left|200px|A modern reconstruction and scaled down model of Jang Yeong-sil's [[Striking clock|self-striking water clock]].]]
Triều đại Thế Tông chứng kiến sự tiến triển của kỹ thuật. Ông muốn giúp những người [[nông dân]] nên ông ta quyết định viết một cuốn sổ tay hướng dẫn nông dân. Quyển sách này tựa ''Nongsa chiksŏl'', chứa thông tin về những kỹ thuật canh tác khác nhau mà ông đã ra lệnh cho các nhà khoa học đi thu thập ở nhiều vùng miền Triều Tiên.<ref name="kim 1998 57"/> Các kỹ thuật này cần thiết để duy trì nhựng phương pháp mới được chấp nhận như thâm canh, cày liên tục trong nền nông nghiệp nước nhà.<ref name="kim 1998 57"/>
Triều đại Thế Tông chứng kiến sự phát triển mạnh về khoa học và kỹ thuật. Vua Thế Tông có ý muốn giúp đỡ những người [[nông dân]] Triều Tiên, vì vật ông ta hạ lệnh biên soạn viết một quyển sách hướng dẫn cho họ. Kết quả năm 1429 tác phẩm ''Nông sự trực thuyết'' ra đời, tác phẩm này chứa đựng những thông tin về nhiều kỹ thuật canh tác khác nhau mà vua Thế Tông đã ra lệnh cho các quan chức đi thu thập ở trên khắp đất nước Triều Tiên.<ref name="kim 1998 57"/> Các kỹ thuật này cần thiết để thực hiện những phương pháp canh tác mới trong nền nông nghiệp Triều Tiên.<ref name="kim 1998 57"/>


Dưới triều Thế Tông, [[Chang Yŏngsil|Tưởng Anh Thực]] (蔣英實, 장영실, ''Chang Yŏngsil'') trở thành một nhà phát minh nổi tiếng. Tưởng Anh Thực, một người trẻ tuổi, vốn nhà tưởng thông minh và đầu óc sáng tạo. Thế nhưng Tưởng là người thuộc tầng lớp dưới cùng xã hội. Thái Tông, cha của Thế Tông, nhận thấy tài năng của Tưởng và lập tức gọi ông ta đến thủ đô Hán Thành. Khi vua phong Tưởng làm quan và tài trợ cho các phát minh của ông ta, bọn quan lại phản đối, họ tin rằng một kẻ thuộc tần lập dưới không thể đứng ngang hàng với các vị quan quyền quý. Thay vì đó, Thế Tông cho rằng Tưởng xứng đáng được làm quan vì ông ta có tài. Tưởng created new significant designs for [[đồng hồ nước]], [[armillary sphere]]s, and [[sundial]]s.<ref>{{ko}}[http://www.bueb125.com.ne.kr/san311.htm 장영실 蔣英實]</ref> However, his most impressive invention came in 1442, the world's first [[rain gauge]]; this model has not survived, since the oldest existent East Asian rain gauge is one made in 1770, dưới triều vua Anh Tổ. Theo tác phẩm '''Thừa chính viện Nhật ký''' (承政院日記, ''Sŭngchŏngwŏn Ilki'') vua [[Triều Tiên Anh Tổ|Anh Tổ]] dự định khôi phục lại sự huy hoàng của thời đại Thế Tông, và vì vậy ông đã đọc một tác phẩm sử biên niên về thời Thế Tông. When he came across mention of a dụng cụ đo lượng mưa, vua Anh Tổ ordered a reproduction. Since there is a mark of the vua [[Càn Long]] [[nhà Thanh]] (trị vì: 1735&ndash;1796) của [[Trung Quốc]], dated 1770<ref name="kim 1998 51">Kim (1998), 51.</ref>, this Korean designed rain-gauge is sometimes misunderstood as having been imported from China.
[[Chang Yŏngsil|Tưởng Anh Thực]] (蔣英實, 장영실, ''Chang Yŏngsil'') một nhà phát minh xuất chúng trong triều đại của Thế Tông. Ngay từ nhỏ Tưởng đã bộc lộ suy nghĩ thông minh và khả năng sáng tạo. Thế nhưng ông lại một người thuộc tầng lớp dưới cùng xã hội. Trước đây phụ vương Thái Tông đã nhận thấy tài năng của Tưởng và lập tức gọi triệu ông đến kinh đô Hán Thành. Việc vua phong Tưởng làm quan và tài trợ cho các nghiên cứu, phát minh của ông, nhiều quan chức trong triều đã phản đối mạnh mẽ vì họ cho rằng một kẻ thuộc tiện dân thuộc tầng lớp dưới không thể nào đứng ngang hàng với các vị quan lại quyền quý. Nhưng vua Thế Tông lại cho rằng Tưởng xứng đáng được như vậy vì ông ta là người có tài. Tưởng created new significant designs for [[đồng hồ nước]], [[armillary sphere]]s, and [[sundial]]s.<ref>{{ko}}[http://www.bueb125.com.ne.kr/san311.htm 장영실 蔣英實]</ref> However, his most impressive invention came in 1442, the world's first [[rain gauge]]; this model has not survived, since the oldest existent East Asian rain gauge is one made in 1770, dưới triều vua Anh Tổ. Theo tác phẩm '''Thừa chính viện Nhật ký''' (承政院日記, ''Sŭngchŏngwŏn Ilki'') vua [[Triều Tiên Anh Tổ|Anh Tổ]] dự định khôi phục lại sự huy hoàng của thời đại Thế Tông, và vì vậy ông đã đọc một tác phẩm sử biên niên về thời Thế Tông. When he came across mention of a dụng cụ đo lượng mưa, vua Anh Tổ ordered a reproduction. Since there is a mark of the vua [[Càn Long]] [[nhà Thanh]] (trị vì: 1735&ndash;1796) của [[Trung Quốc]], dated 1770<ref name="kim 1998 51">Kim (1998), 51.</ref>, this Korean designed rain-gauge is sometimes misunderstood as having been imported from China.


Thế Tông cũng tiến hành cải cách hệ thống [[lịch Triều Tiên]], dựa trên [[vĩ độ]] của thủ đô Trung Quốc.<ref name="kim 1998 57">Kim (1998), 57.</ref> Lần đầu tiên trong lịch sử Triều Tiên, Thế Tông, had his astronomers create a calendar with the thủ đô [[Hán Thành]] của Triều Tiên as the primary position of [[latitude]].<ref name="kim 1998 57"/> This new system allowed Korean astronomers to accurately predict the timing of solar and lunar [[eclipses]].<ref name="kim 1998 57"/><ref>{{ko}}[http://www.reportnet.co.kr/knowledge/pop_preview.html?dn=2075262 Science and Technology during Sejong the Great of Joseon]</ref>
Thế Tông cũng tiến hành cải cách hệ thống [[lịch Triều Tiên]], vốn trước đây dựa trên hệ quy chiếu là [[vĩ độ]] của kinh đô Trung Quốc.<ref name="kim 1998 57">Kim (1998), 57.</ref> Vua Thế Tông, lần đầu tiên trong lịch sử Triều Tiên, sai các nhà thiên văn học Triều Tiên biên soạn một bộ lịch lấy thủ đô Hán Thành làm độ trung tâm.<ref name="kim 1998 57"/> This new system allowed Korean astronomers to accurately predict the timing of solar and lunar [[eclipses]].<ref name="kim 1998 57"/><ref>{{ko}}[http://www.reportnet.co.kr/knowledge/pop_preview.html?dn=2075262 Science and Technology during Sejong the Great of Joseon]</ref>


In the realm of [[traditional Korean medicine]], two important treatises were written during the reign of Sejong. These were the ''Hyangyak chipsŏngbang'' and the Ŭibang yuch'wi, which historian Yung Sik Kim says represents "Koreans' efforts to develop their own system of medical knowledge, distinct from that of China."<ref name="kim 1998 57"/>
In the realm of [[traditional Korean medicine]], two important treatises were written during the reign of Sejong. These were the ''Hyangyak chipsŏngbang'' and the Ŭibang yuch'wi, which historian Yung Sik Kim says represents "Koreans' efforts to develop their own system of medical knowledge, distinct from that of China."<ref name="kim 1998 57"/>

Phiên bản lúc 14:22, ngày 11 tháng 11 năm 2009

Bản mẫu:FixBunching

Thế Tông Đại Vương
Vua nhà Triều Tiên
Trị vì18 tháng 9, 1418 - 18 tháng 5, 1450
Đăng quang18 tháng 9, 1418
Tiền nhiệmTriều Tiên Thái Tông
Kế nhiệmTriều Tiên Văn Tông
Thông tin chung
Sinh(1397-05-06)6 tháng 5, 1397
Mất18 tháng 5, 1450(1450-05-18) (53 tuổi)
Triều Tiên
Thê thiếpChiêu Hiến Vương hậu họ Thẩm
Hậu duệ
Tên đầy đủ
Lý Tạo
Thụy hiệu
Trang Hiến Anh Văn Duệ Vũ Nhân Thánh Minh Hiếu Đại Vương
Miếu hiệu
Thế Tông (Sejong)
Vương tộcDòng họ Lý
Thân phụTriều Tiên Thái Tông
Thân mẫuNguyên Kính Vương hậu họ Mẫn
Tôn giáoNho giáo

Bản mẫu:FixBunching

Korean name
Hangul
세종대왕
Hanja
世宗大王
Romaja quốc ngữSejong Daewang
McCune–ReischauerSechong Taewang
Tên khai sinh
Hangul
이도
Hanja
李裪
Romaja quốc ngữI Do
McCune–ReischauerI To
Tên lúc nhỏ
Hangul
원정
Hanja
元正
Romaja quốc ngữWon Jeong
McCune–ReischauerWŏn Chŏng

Bản mẫu:FixBunching

Triều Tiên Thế Tông (6 tháng 5 năm 139718 tháng 5 năm 1450), là quốc vương thứ tư của nhà Triều Tiên họ Lý. Công lớn nhất của ông là cải cách văn tự cho đất nước, ban hành chữ cái tượng thanh Chosŏn'gŭl (năm 1446) dùng để ký âm tiếng Triều Tiên, bất chấp sự phản đối mạnh từ phía những hủ nho dùng chữ Hán của Trung Quốc. Ông có hiệu là Thế Tông Đại Vương (世宗大王, 세종대왕, Sechong Taewang).

Tuổi trẻ

Thế Tông tên thụy là Lý Tạo (李裪, 이도, I To), ông là con thứ ba của vua Thái Tông Lý Phương Viễn (1400 - 1418). Lúc còn làm vương tử, ông được phong là Trung Ninh Đại quân. Khi Lý Tạo được mười hai tuổi, ông được phong làm Đông cung Thế tử (충녕대군; 忠寧大君) - kế vị ngai vàng của cha mình - và kết hôn với một người con gái của Thẩm Ôn (沈溫, 심온, Sim On), một đại quý tộc nguyên quán ở Thanh Tùng (靑松, 청송, Ch'ŏngsong); người con gái này thường được gọi là Thẩm thị (沈氏,심씨, Sim-ssi tức Chiêu Hiến Vương Hậu (昭憲王后, 소헌왕후) sau này.

Khi còn trẻ, Lý Tạo học giỏi nhiều môn, nên được vua cha yêu quý hơn hai người anh.

Việc lên ngôi của Lý Tạo có nhiều điểm khác với sự lên ngôi của phần lớn các vị vua khác. Vương tử trưởng là Nhượng Ninh Đại quân (양녕대군) Lý Đề (李褆), nhận thấy mình không đủ tài làm vua, tin Thế Tông đã có mệnh làm vương. Cùng với vương tử thứ hai là Hiếu Ninh Đại quân (효령대군) Lý Bổ (李補), ông ta cho rằng trách nhiệm của họ là đưa Lý Tạo lên ngôi. Vì vậy họ cố tỏ thái độ cực kỳ vô lễ ở cung đình, và ít lâu sau họ bị trục xuất khỏi Hán Thành. Mưu tính của 2 vương tử này cuối cùng đã đưa Lý Tạo lên ngôi. Vương tử trưởng trở thành một lữ khách đi lang thang, và sống ẩn dật trên núi. Người con thứ hai đến một ngôi chùa, nơi ông ta xuống tóc đi tu.

Tháng 8 năm 1418, hai tháng sau khi Thái Tông thoái vị, Lý Tạo lên ngôi, tức vua Triều Tiên Thế Tông. Dù vậy, Thái Thượng vương Thái Tông vẫn phần nào nắm quyền lực trong triều đình, đặc biệt là nhiều vấn đề quân sự đến khi ông qua đời năm 1422.

Quân sự

Vua Thế Tông được đánh giá là một nhà chiến lược tài ba. Tháng 5 năm 1419, dưới sự cố vấn và chỉ đạo của vua cha Thái Tông, Thế Tông phát động cuộc Kỷ Hợi Đông chinh nhằm để tiễu trừ bọn cướp biển Nhật Bản đang hoành hành ở khu vực đảo Đối Mã gây ra. Cuộc Đông chinh đã tiêu diệt 243 quân Nhật và bắt làm tù binh 110 tên, còn phía Triều Tiên chỉ thiệt mạng 4 binh sĩ. Ít nhất 140 người Trung Hoa bị bắt cóc đã được trả tự do. Tháng chín năm 1419, Đại Danh của đảo Đối Mã, Sadamori đã đến đầu hàng chính quyền Triều Quốc

Cuối cùng, vào năm 1443, Hòa ước Quý Hợi được ký kết, trong đó Đại danh của đảo Đối Mã công nhận và tuân phục quyền lực của vua Triều Tiên; và triều đình cho phép Đối Mã được thông thương với Triều Tiên sáu mươi tàu thuyền mỗi năm.[1]

Ở biên giới phía Bắc, vua Thế Tông cho xây dựng bốn công sự và sáu khu đồn trú quân, còn được gọi là tứ quận, lục dinh (四郡六鎭, 사군육진) đế bảo vệ đất nước trước nguy cơ xâm lược của người Trung Quốc và dân du mục người Mãn Châu. Ông cũng chỉnh đốn lại quân đội đế tăng cường an ninh cho đất nước.[2] Thế Tông còn tích cực ủng hộ việc phát triển tiến bộ của kỹ thuật quân sự cho đất nước, trong thời của ông lực lượng pháo binh dùng thuốc súng phát triển nhanh. Các loại pháo cối, tên bắn lửa khác nhau cũng đã được thử nghiệm và sử dụng với thuốc súng.

Năm 1433, vua Thế Tông ra lệnh cho Kim Tông Thụy (金宗瑞, 김종서, Kim Chongsŏ), một viên tướng có tài mở một cuộc chinh phạt ở khu vực phía Bắc nhằm tiêu diệt thế lực của người Nữ Chân ở đây. Chiến dịch của tướng Kim đã chiếm được một số thành trì và khôi phục lại lãnh thỗ cho Triều Tiên, đẩy biên giới của Triều Tiên lên gần bằng biên giới CHDCND Triều Tiên với Trung Quốc hiện nay.[3]

Khoa học & công nghệ

A modern reconstruction and scaled down model of Jang Yeong-sil's self-striking water clock.

Triều đại Thế Tông chứng kiến sự phát triển mạnh về khoa học và kỹ thuật. Vua Thế Tông có ý muốn giúp đỡ những người nông dân Triều Tiên, vì vật ông ta hạ lệnh biên soạn viết một quyển sách hướng dẫn cho họ. Kết quả năm 1429 tác phẩm Nông sự trực thuyết ra đời, tác phẩm này chứa đựng những thông tin về nhiều kỹ thuật canh tác khác nhau mà vua Thế Tông đã ra lệnh cho các quan chức đi thu thập ở trên khắp đất nước Triều Tiên.[4] Các kỹ thuật này cần thiết để thực hiện những phương pháp canh tác mới trong nền nông nghiệp Triều Tiên.[4]

Tưởng Anh Thực (蔣英實, 장영실, Chang Yŏngsil) là một nhà phát minh xuất chúng trong triều đại của Thế Tông. Ngay từ nhỏ Tưởng đã bộc lộ suy nghĩ thông minh và khả năng sáng tạo. Thế nhưng ông lại là một người thuộc tầng lớp dưới cùng xã hội. Trước đây phụ vương Thái Tông đã nhận thấy tài năng của Tưởng và lập tức gọi triệu ông đến kinh đô Hán Thành. Việc vua phong Tưởng làm quan và tài trợ cho các nghiên cứu, phát minh của ông, nhiều quan chức trong triều đã phản đối mạnh mẽ vì họ cho rằng một kẻ thuộc tiện dân thuộc tầng lớp dưới không thể nào đứng ngang hàng với các vị quan lại quyền quý. Nhưng vua Thế Tông lại cho rằng Tưởng xứng đáng được như vậy vì ông ta là người có tài. Tưởng created new significant designs for đồng hồ nước, armillary spheres, and sundials.[5] However, his most impressive invention came in 1442, the world's first rain gauge; this model has not survived, since the oldest existent East Asian rain gauge is one made in 1770, dưới triều vua Anh Tổ. Theo tác phẩm Thừa chính viện Nhật ký (承政院日記, Sŭngchŏngwŏn Ilki) vua Anh Tổ dự định khôi phục lại sự huy hoàng của thời đại Thế Tông, và vì vậy ông đã đọc một tác phẩm sử biên niên về thời Thế Tông. When he came across mention of a dụng cụ đo lượng mưa, vua Anh Tổ ordered a reproduction. Since there is a mark of the vua Càn Long nhà Thanh (trị vì: 1735–1796) của Trung Quốc, dated 1770[6], this Korean designed rain-gauge is sometimes misunderstood as having been imported from China.

Thế Tông cũng tiến hành cải cách hệ thống lịch Triều Tiên, vốn trước đây dựa trên hệ quy chiếu là vĩ độ của kinh đô Trung Quốc.[4] Vua Thế Tông, lần đầu tiên trong lịch sử Triều Tiên, sai các nhà thiên văn học Triều Tiên biên soạn một bộ lịch lấy thủ đô Hán Thành làm vĩ độ trung tâm.[4] This new system allowed Korean astronomers to accurately predict the timing of solar and lunar eclipses.[4][7]

In the realm of traditional Korean medicine, two important treatises were written during the reign of Sejong. These were the Hyangyak chipsŏngbang and the Ŭibang yuch'wi, which historian Yung Sik Kim says represents "Koreans' efforts to develop their own system of medical knowledge, distinct from that of China."[4]

Văn học

Thế Tông phát triển văn học, và khuyến khích các high class officials và học giả đến study at the court. Vua Thế Tông also oversaw, and perhaps participated himself, in the creation of the written language of hangul and announced it to the Korean people in the Huấn dân chính âm (訓民正音, 훈민정음, Hunminjŏngŭm), meaning "The verbally right sounds meant to teach the people."

Thế Tông depended on the agricultural produce of Triều Tiên's farmers, so he allowed them to pay more or less tax according to fluctuations of economic prosperity or hard times. Because of this, farmers could worry less about tax quotas and work instead at surviving and selling their crops. Once the palace had a significant surplus of food, vua Thế Tông then distributed food to poor peasants or farmers who needed it. In 1429 Nông sự trực thuyết (農事直說, 농사직설, Nongsachiksŏl) was compiled under the supervision of vua Thế Tông. Đây là quyển sách đầu tiên nói về Triều Tiên farming, dealing with agricultural subjects such as planting, harvesting, and soil treatment.

Although most government officials and aristocrats opposed usage of hangul, lower classes embraced it, became literate, and were able to communicate with one another in writing.

Thế Tông's personal writings are also highly regarded. He composed the famous Long phi ngự thiên ca (龍飛御天歌, 용비어천가,Yongbiŏch'ŏnga, viết năm 1445), Thích Phổ Tường Tiết (釋譜詳節, 석보상열, Sŏkpo Sangchŏl, viết tháng 7 năm 1447), Nguyệt lân thiên giang trì khúc (月璘千江篪曲, 월린천강지곡, Wŏrin Ch'ŏnkang Chikok, viết tháng 7 năm 1447), and the reference Đông quốc chính âm (東國正音, 동국정음, Tong'guk Jŏngŭm, viết tháng 9 năm 1447).

Năm 1420 Thế Tông thiết lập Tập hiền điện (集賢殿; 집현전; Chiphyŏnjŏn) ở Dương Đức Cung. It consisted of scholars selected by the king. Tập hiền điện participated in various scholarly endeavors, of which the best-known may be the compilation of the Huấn dân chính âm, in which the Chosŏn'gŭl writing system was first formulated. [8]

Chosŏn'gŭl

Huấn dân chính âm Eonhae

Thế Tông Đại Vương đã có một cải cách mang ảnh hướng lớn đến lịch sử Triều Tiên, đó là ban hành Chosŏn'gŭl, bảng chữ cái ký âm dùng cho tiếng Triều Tiên hiện nay.[9]

Before the creation of Chosŏn'gŭl, only members of the highest class were literate (hanja was typically used to write Korean by using adapted Chinese characters while Hanmun was sometimes used to write court documents in classical Chinese). One would have to learn the quite complex hanja characters in order to read and write Korean. Further, despite modifications to the Chinese characters, hanja could prove cumbersome when transcribing the Korean language due to considerable differences grammar and sentence order.[10]

Thế Tông Đại Vương presided over the introduction of the 28 letter Korean alphabet, with the explicit goal being that Koreans from all classes would read and write. He also attempted to establish a cultural identity for his people through its unique script. First published in 1446, anyone could learn Chosŏn'gŭl in a matter of days. Persons unfamiliar with Chosŏn'gŭl can typically pronounce Korean script accurately after only a few hours study.

Ông created the Chosŏn'gŭl characters from scratch, and based each one on a simplified diagram of the patterns made by the mouth, tongue and teeth when making the sound related to the character. Broadly speaking, one character is roughly equal to one English syllable, and words are built by writing the syllable characters in a particular way. It is not a linear language, and the syllable characters tend to be 'clumped' into groups of two or three.

Thế Tông Đại Vương cũng cố gắp thiết lập a cultural identity for his people through its unique script. First published in 1446, anyone could learn Chosŏn'gŭl in a matter of days. Persons unfamiliar with Chosŏn'gŭl can typically pronounce Korean script accurately after only a few hours study. This is due to the fact that Chosŏn'gŭl is:

  1. phoenetic in character
  2. the Korean language is non-tonal (unlike Chinese).

Qua đời và di sản

Lăng Thế Tông Đại Vương ở Yeoju, tỉnh Gyeonggi, Nam Hàn.

Năm 1450, Triều Tiên Thế Tông qua đời ở tuổi 54, được táng ở Yên Lăng (英陵, 영릉, Yŭngnŭng). Vương Thế tử Lý Hướng lên ngôi, đó là vua Triều Tiên Văn Tông.

Cả hai vị trí trung tâm Seoul: Phố Sejongno và trung tâm nghệ thuật biểu diễn Sejong được đặt theo tên của vua Thế Tông. Ông còn được miêu tả trên các ghi chú ở 10.000- Won của Hãn Quốc .[11]

Đầu năm 2007, chính phủ Hàn Quốc đã quyết định thành lập đặc khu trên một phần hiện tại của tỉnh Chungcheongnam-do, gần Daejeon hiện nay. Khu vực mới này được đặt tên là thành phố tự trị đặc biệt Sejong được đặt theo miếu hiệu của Thế Tông, sẽ thay thế thủ đô Seoul trong tương lai. Cuộc đời của Thế Tông được thể hiện trong loạt phim lịch sử phát sóng trên kênh KBS mang tên Đại Vương Thế Tông vào năm 2008.[12]

Gia đình

Song thân

  • Cha: Vua Triều Tiên Thái Tông (태종)
  • Mẹ: Nguyên Kính Vương hậu họ Mẫn ở Ly Hứng (驪興, 여흥, Yŏhŭng)

Vợ

  1. Chiêu Hiến Vương hậu họ Thẩm ở Thanh Tùng (青松, 소헌, Ch'ŏngsong)
  2. Lệnh tần họ Khương (영빈 강씨, ?-1483)
  3. Thận tần họ Kim (신빈 김씨, 1404-1464, 60 tuổi)
  4. Huệ tần họ Dương (혜빈 양씨, ?-1455)
  5. Trang Ý Cung chúa họ Phác (Kwiin Park ssi, 귀인 박씨, 1369-1422, 53 tuổi)
  6. Minh Ý Cung chúa họ Thôi (Kwiin Ch'oe ssi, 귀인 최씨, 1376-1452, 76 tuổi)
  7. Hong Soyong (소용 홍씨)
  8. Thục nghi họ Tào
  9. Thục viên họ Lý (Sukwŏn I ssi, 숙원 리씨)
  10. Thượng tẩm họ Tống (Sangch'im Song ssi, 상침 송씨)
  11. Cha Sa-gi (사기 차씨)

Con trai

  1. Vương Thế tử Lý Hướng (李珦) (왕세자, 1414-1452, 38 tuổi), con trai trưởng của Chiêu Hiến Vương hậu.
  2. Thủ Dương Đại quân Lý Nhu (李瑈) (수양대군, 1417-1468, 51 tuổi), con trai thứ 2 của Chiêu Hiến Vương hậu.
  3. An Bình Đại quân (안평대군, 1418-1453, 35 tuổi), con trai thứ 3 của Chiêu Hiến Vương hậu.
  4. Lâm Quán Đại quân Lý Cầu (李璆) (임영대군, 1420-1469, 49 tuổi), con trai thứ 4 của Chiêu Hiến Vương hậu.
  5. Quảng Bình Đại quân Lý Dư (李璵) (광평대군, 1425-1444, 19 tuổi), con trai thứ 5 của Chiêu Hiến Vương hậu.
  6. Cẩm Thành Đại quân Lý Du (李瑜) (금성대군, 1426-1457, 31 tuổi), con trai thứ 6 của Chiêu Hiến Vương hậu.
  7. Bình Nguyên Đại quân Lý Lâm (李琳) (평원대군, 1427-1445, 18 tuổi), con trai thứ 7 của Chiêu Hiến Vương hậu.
  8. Vĩnh Ưng Đại quân Lý Diễm (李琰) (영응대군, 1434-1467, 33 tuổi), con trai thứ 8 của Chiêu Hiến Vương hậu.
  9. Hòa Nghĩa quân Lý Anh (李瓔) (화의군, 1425-1460, 35 tuổi), Con trai duy nhất của Lệnh tần họ Khương.
  10. Quế Dương quân (계양군, 1427-1464, 37 tuổi), con trai trưởng của Thận tần họ Kim.
  11. Nghĩa Xương quân (의창군, 1428-1460, 32 tuổi), con trai thứ 2 của Thận tần họ Kim.
  12. Mật Thành quân Lý Sâm (李琛) (밀성군, 1430-1479, 49 tuổi), con trai thứ 3 của Thận tần họ Kim.
  13. Dực Hiện quân (익현군, 1431-1463, 32 tuổi), con trai thứ 4 của Thận tần họ Kim.
  14. Yeonghae quân (영해군), con trai thứ 5 của Thận tần họ Kim.
  15. Đầm Giang quân (담양군, 1439-1450, 11 tuổi), con trai thứ 6 của Thận tần họ Kim.
  16. Hán Nam quân Lý Vu (李玗) (한남군, 1429-1459, 30 tuổi), con trai trưởng của Huệ tần họ Dương.
  17. Thọ Xuân quân (수춘군, 1431-1457, 26 tuổi), con trai thứ 2 của Huệ tần họ Dương.
  18. Yeongpung quân (영풍군), con trai thứ 3 của Huệ tần họ Dương.

Con gái

  1. Trinh Chiêu Công chúa (정소공주, Chŏngso Kongchu, 1412-1424, 12 tuổi), con gái thứ nhất với Chiêu Hiến Vương hậu.
  2. Trinh Y Công chúa (정의공주, Chŏngŭi Kongchu, 1415-1477, 62 tuổi), con gái thứ hai với Chiêu Hiến Vương hậu.
  3. Hai con gái với của Thận tần họ Kim.
  4. Trinh An Ông chúa (정안옹주, Chŏngan Ongchu, 1424-1480, 56 tuổi), con gái duy nhất với Thục viên họ Lý.
  5. Trinh Hiển Ông chúa (정현옹주. Chŏnghyŏn Ongchu, 1438-1461, 23 tuổi), con gái duy nhất với Thượng tẩm họ Tống.
  6. Một con gái với của Cha Sa-gi

Miếu hiệu và thuỵ hiệu

  • King Sejong Jangheon Yeongmun Yemu Inseong Myeonghyo
  • 세종장헌영문예무인성명효대왕
  • 世宗莊憲英文睿武仁聖明孝大王
  • Thế Tông Trang Hiến Anh Văn Duệ Vũ Nhân Thánh Minh Hiếu Đại Vương

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ (tiếng Hàn)계해조약
  2. ^ <<책한권으로 읽는 세종대왕실록>>(Learning Sejong S3ilok in one book) ISBN 10 - 890107754X
  3. ^ <<책한권으로 읽는 세종대왕실록>>(Learning Sejong Silok in one book) ISBN 10 - 890107754X
  4. ^ a b c d e f Kim (1998), 57.
  5. ^ (tiếng Hàn)장영실 蔣英實
  6. ^ Kim (1998), 51.
  7. ^ (tiếng Hàn)Science and Technology during Sejong the Great of Joseon
  8. ^ (tiếng Hàn)Introduction to Sejong the Great
  9. ^ Kim Jeong Su(1990), <<한글의 역사와 미래>>(History and Future of Hangul) ISBN 10 - 8930107230
  10. ^ Hunmin Jeongeum Haerye, postface of Jeong Inji, p. 27a, translation from Gari K. Ledyard, The Korean Language Reform of 1446, p. 258
  11. ^ (tiếng Hàn)Tourguide - Tomb of Sejong the Great
  12. ^ Official website of the drama King Sejong the Great

Tài liệu tham khảo

  • Kim, Yung Sik. (1998). "Problems and Possibilities in the Study of the History of Korean Science," Osiris (2nd series, Volume 13, 1998): 48–79.
  • King Sejong the Great: the Light of Fifteenth Century Korea, Young-Key Kim-Renaud, International Circle of Korean Linguistics, 1992, softcover, 119 pages, ISBN 1-882177-00-2
  • Kim-Renaud, Young-Key. 2000. Sejong's theory of literacy and writing. Studies in the Linguistic Sciences 30.1:13-46.
  • Gale, James Scarth. History of the Korean People Annotated and introduction by Richard Rutt. Seoul: Royal Asiatic Society, 1972..

Liên kết bên ngoài

Tiền nhiệm:
Thái Tông
Vua nhà Triều Tiên
1418–1450
Kế nhiệm:
Văn Tông